Tới gặp dịp Sài Gòn ăn lễ, người coi đông như thể hội Tần, đàng dập dìu xe ngựa rần rần, hỏi mới biết lễ mầng Tân thị. Trong chợ dọn coi huê mỹ, ngoài đèn giăng cờ xí uyên thiên, tối bữa đầu có diễu binh đèn, người ngựa chật như nêm khó bước.
Kia gia nhạc thổi kèn đi trước, lính cỡi lừa xông lướt theo sau, ngọn đèn lồng chói rỡ tợ sao, cua, rùa, trạnh, kình, ngao, tôm cá. Bắt từ thành Sơn Đá đi thẳng ngả Bà Hình, lộn vào Tổng thống dinh, pháo liên thinh đua nổ. Chập lâu rồi lại trổ ra xuống ngõ Má Hồng, tù tội ở lầu trong, chen lổ song mà nó!
Lầu Nguyên Soái đèn giăng chói đỏ, người ngựa liền vào đó rồi ra, đổ thẳng xuống Ca Ti Na, mới lần qua Kinh Lấp. Cờ phất phơ tam sắc, đèn chói rỡ một màu, lầu chi mà cao rất đỗi cao, rực rỡ xem vào thú vị.
Đây có phải là lầu Trích tinh một nàng Giả thị, hay là đài Thương Vương giận thí Quới phi, đó có phải là chùa Hưng Long mụ vải chẳng từ bi, hay là am Võ Hậu xầm xì cùng lão Sãi. Đó có phải là Hỏa Diệm Sơn Tam Tạng xưa đã trải qua, hay là Phong hỏa đài Bao tỉ giải sầu tây?
Không không, Xã Tây Lầu quí khách tới nghỉ đây, phải phải, Cao Mên Tự mấy thấy vào tu đó.
Dòm ra ga như vừng hồng rạng đỏ, hào quang xung thấy rõ gúc mây xanh, ngó vào chợ tợ gương nguyệt ững thanh, ánh sáng tỏa chói lòa đàng cúc trắng. Người nhượng đàng thủng thẳng (thỉnh thoảng), chơn bước vắn bước dài, biết bao nhiêu thiếm gái chú trai, kể sao xiết mụ già ông lão.
Trong Tây nữ bán buôn đông đảo, ngoài thanh khách đốt pháo lu bù, người mua nón kẻ mua dù, trẻ xích đu già coi hát. Bánh xe cây lăn tròn coi thấm thoát, chơn ngựa gỗ khua lạc chạy có cờ; đám liệng hình, hình đứng ngó trơ trơ, bọn đánh số, số quây coi chóng chóng.
Những ngỡ kèn hát bóng, dè đâu trống nhảy đầm, ô hô! Mẹ lạc con đau dạ thảm khóc thầm, hả hả, mèo gặp mỡ oan tâm vui cười rộ!!!
Coi chẳng khác hội huê đăng đời Đường bày ra đó, nhằm inh như chốn giang hồ khảo võ chọn hùng anh. Nhơn sao mà thiếu mặt La Thành, nhơn sao lại vắng hình Thúc bảo. Kiếm chẳng thấy một trang áo mão, gặp đầy đàng những bọn Huê Tiên; vậy thì đây là chốn chợ phiên, vậy thì đó là phiền ba hội.
Cũng hiếm kẻ đem mình vào hóc tối, thiếu chi người lặn lội chốn không đèn, gái hữu duyên chiếp miệng tợ hoa sen, trai hữu ý mắt xem dường thức ngọc. Bọn ong bướm lại qua ghẹo chọc, khách má hồng lừa lọc mối mang; tảo thinh rồi mà thiên hạ chưa tan, sáng bét mới tới vườn Đồng Lạc.
Chơn rảo bước lòng hoa bát ngát, mắt liếc nhìn thấm thoát lại qua, đàng lộn quanh thiên hạ hằng hà; xe ngựa túa ra như nước. Hoa noi người đi trước, cứ dõi bước theo sau, tới một vườn bóng mát cây cao, tờ tam sắc gió xao chèo phất.
Hoa mới hỏi thăm người bày thật, rằng đây là Đồng Lạc chi viên; cảnh tốt xinh ngó tợ cảnh tiên, hoa đợm sắc như miền cung nguyệt. Vườn rộng rãi nói sao cho xiết, đàng lộn quanh kể biết bao là, Tây với Nam lui tới hằng hà, Chà cùng Chệc lại qua muôn vạn.
Xe kéo đua mấy vòng xem quá ngán, người chạy bộ nhiều bận ngó rất kinh, bọn kéo dây ra sức chống kình, tốp đua nhảy nhẹ mình phóng luyện. Kể chi lắm dây dưa nhiều chuyện, nói sao cùng một biển nhơn gian; bây giờ ta trở lại nghĩ an, chiều sẽ tới coi bảy ban chưng cộ.
Chiều bỗng nghe trống kèn thổi ó, người chen nhau tựu ngõ ba hình, trước đầu hàng thấy đạo mã binh, nghe người nói: lính Ma –rốc xuất chinh tiền đội; sau lưng tiếp nhạc thiều chập trỗi, thiệt là tướng lịnh nghiêm hàng lối chỉnh tề.
Hoa chợt nhìn: Người nước nào mà bộ mặt ngó rất ghê, hỏi vậy chớ có phải dân ở xứ dốt quê đem tới?
“Không, đó là mọi da đỏ bên phương Giái-mới, tục rước nhà để lợi roi truyền; hễ lọt lòng mài son đỏ thoa liền, chớ khi đẻ da đen huyền như mọi.”
Gà Go-loa (Gaulois) chót mồng đỏ chói, dĩ kê làm phụng gọi thái bình; Kiệu bổn thông qua chữa khuất mình, cộ Sanh Bạc (Sainte – Barbe) Đồng trinh lướt dặm. Tích xưa diễn ra nghe càng thấm, sử nên truyền coi gẫm cũng au. Vua Rô-manh (Romain) bạo ngược biết bao, tà đạo giết kể sao cho xiết. Bà Sanh Bạc thấy hình gớm ghiết, vì thế lòng giữ quyết đạo lành; xem tích đây nhớ chuyện nước mình, cũng hiếm mặt trọn tình tử điệu.
Lá cờ nhung thêu vàng ánh chiếu, thấy chữ đề thì rõ hiệu bang. Nước Hẹ chưn đi một rồng nhan, múa nah vuốt lúc thăng lúc giáng. Đám tiểu sanh xách cờ trống ó om, đen, đỏ, trắng, vàng, xanh rực rỡ. Đạo Thủy binh canh thuyền tở mở (Quartnaval), kẻ mang đao, người bồng súng, tốp thì hăm hở bỏ ống dòm, tiếp theo sau Tái Tạo Càn Khôn (Fiat Lux), tích chúa cứu thế dựng nên, phép tắc vô cùng biến hóa.
Còn chi đó mà nghe rầy quá? Ờ ờ nhạc Triều Châu nó đã mã la, thập bát phang vương kéo tới hằng hà, mười tám người ngựa đàng xa qua đó. Kìa kìa cộ Phụng Nghê Đình Điêu Thuyền cùng Lữ Bố, trên có câu Tài tử Giai nhơn; đó đó, cộ Bái Công với Hàn Tín đăng đàng, dưới đề chữ Minh Quân Lương Tể.
Trước thấy kiệu Phật Bà giáng thế, sau xem cộ nàng Mộc Quế Anh; tốp xách đèn đủ ảnh đủ hình, hoa, quả, cá, tôm, kình, cua, trạnh. Bỗng lướt tới một nàng gánh gánh, má phấn son dám sánh Hằng Nga, quốc sĩ xem đôi mắt cũng chói lòa, hồng nhan thấy nước da mà biết sắc.
Gặp Trần Đoàn cỡi lừa thấm thoát, thấy hai vua cười ngất ngã ngang; đờn kêu đâu chập trỗi tiếng nhặt khoan, ấy là giạ nhạc của Lang sa tới. Chưng một tích tuy xưa mà còn mới, chừng bốn mươi năm trở lợi ngày nay, thắng cơ binh Đức quốc đốt Badzai (Bazeilles), thất máy trần Lang sa giai tử chiến.
Gió phơ phất chéo cờ Phước Kiến, nghe người đều cả tiếng khen vang, chưn những tay má phấn với hường nhan, y câu thảy rỡ ràng xem rất thú. Bọn tiểu sanh bận đồ vương phủ, xách lồng đèn làm đủ kiểu xinh; dõi theo sau một cộ Huê tình, tích Trượng lão cõng nàng Tiên Bữu.
Nầy là cộ Kim Đồng Ngọc Nữ, nọ là cộ ông Lữ Đồng Tân, đây là Tô Huệ chít cẩm hồ văn, đó là Quan Mỗ quá quan phò nhị tẩu.
Cộ lính tập coi ra chẳng xấu, nhạc trỗi hay nghe thấu ruột gan? Kế Long xa Phụng Tán đi ngang, Đông Cung Cảnh với Đức Thầy sang Pháp Quốc.
Kiểu khéo xem không mỏi mắt, tiếng khen nghe chẳng nhàm tai, từ Annam, Chà, Chệc tới Tây, dân các nước vỗ tay khen rộ. Qua tới cộ Bát Tiên cũng ngộ, chỗ khéo khôn hết chỗ chê bai; cộ Ngư Ông câu cá thiệt hay; cộ Tiều Lão đốn cây bên triền núi.
Xe hai bánh kết hoa giun ruổi, xe máy đạp chạy lủi qua mau. Cộ Sơn nhơn săn bắn rừng cao, đặng voi lớn cắt đầu về bán.
Tưởng đã hết ai dè còn thấy ráng, cờ Hải Nam thấp thoáng bóng xanh vàng, bốn cộ chưng nữ nhạc ca xang, tiểu sanh xách đèn lồng trắng đỏ.
“Ủa lạ nầy, Cọp ở đâu loạn rừng ra đó? Còn ai kia, đang dương oai diệu võ tả xông? Có phải cảnh lâm sơn đả hổ là Võ Tòng, hay là An Kiển Tư tay không đánh đá?”
“Hả hả! Chốn thiền thị cọp hùm đâu mà nói lạ, hễ đời thái bình lân xuất thá thường khi; tỉ như xưa lân ra đời Tiều lão đánh bỏ thi, làm cho Đức Thánh khóc li bì sưng đôi mắt!”
Đang đàm đạo bỗng xớt qua trước mặt, người gì đâu mà da sắt môi chì, núp bóng cây ngồi đó làm gì, trên khỉ hú giọng sầu bi cha chả?
Ấy là lũ mọi núi che thân bằng tấm lá, bạn cùng loài giả nhơn nương bóng ngả làm nhà; thấy cộ nầy ngùi nhớ tích ông bà, trước cũng ở lộn thú, mang da, nào có khác.
Buồn chưa dứt xảy đâu tiếng nhạc, đánh vang rầy nghe choát lổ tai; thảm chưa nguôi bỗng thấy đám Anh hài, đèn tôm cá cầm tay coi đẹp mắt.
Người ngựa ấy là La Thông Tẳ Bắc, cật ký nầy là Nhơn Quí Chinh Đông; gần gần đây thấy ngựa Thái Công, xa xa đó xe ông vua Võ. Rồng nào nữa mà bay ngang qua ngõ, có phải là rồng Ngạn Oai làm sóng gió hại dân đen?
Khuông Dẫn đâu chẳng uy động cung tên, để vậy mà ngó, lát nữa nước lên, ngập thành linh láng? Hay là rồng yểm trận Đương Dương trường bản, theo mà đỡ Tử Luông lâm nạn chốn Sa Tràng?
“Ủa, xem kỹ ra mới biết rồng nhan, cờ để rõ hiệu bang Quân Tống.”
Cộ qua hết mà người còn đứng ngóng, chen lấn nhau dồn đống khó trở day, người coi không mỏi cẳng theo hoài, kẻ múa rã tay không muốn động. Mãn lần bước theo kèn theo trống, quên ăn chừng đói bụng mới hay. Hoa mới tìm quán trung cơm nước no say, phỉ lòng sẽ đáo lai Tân Thị.
Thoàn từ thuở dứt tình chung thỉ, bỏ Hai Long riêng lụy một mình; cứ thả theo tửu điếm trà đình, thua cờ bạc mới sinh trộm cắp. Ban ngày thì tụ tập, tối người an giấc nhấp ra tay; nay vẳng nghe Tân Thị lễ bày, mới bắm bộ đồ tây vô diện. Mắt thì mang cặp kiếng, miệng thì bật tiếng Lang sa, túi nhỏ giắt mu-soa, tay kẹp xì gà thú vị. Trên đầu thì nón nỉ, tóc ma-ní rất xinh, chọn mang giày bót-chin, bộ coi in khỉ đột. Xấu thì hay làm tốt, thật tiếng tục rất nhầm, gái nhà quê không biết mà lầm, tay trải việc đã nhàm con mắt!
Phận Nhơn đã lỡ tay cầm sắc, con bạn đà cách mặt còn chi, tuy vậy mà lòng gắng dạ ghi, quyết giữ trọn nghì cùng bạn. Tơ đứt đoạn ruột đau từ đạon, tình sâu xa nghĩ ngán sự tình, cũng hiếm nơi muốn kết bố kinh, Nhơn nhứt nguyện chẳng đành nối tóc. Đêm vào phòng than khóc, ôm gối tình trách móc sự duyên; nghe người đồn có nhóm Chợ phiên, Nhơn gượng bước giải phiền đôi lát.
Nơi hiên chợ gần bên rạp hát, thấy rượu chè giải khát bày ra, Nhơn tính vào ngồi uống So-da, bỗng gặp bọn đờn bà quen mặt. nhơn chào hỏi rồi ngồi liếc mắt, dịp đâu may thấy mặt thằng Thoàn, chống ba ton tréo mảy dựa ngang, ngồi riêng một cái bàn gần đó.
Nhơn muốn ra oai gió, cho Thoàn rõ đá vàng, nhưng mà nhơn còn sợ lịnh quan, nên không dám ngang tàng như thử. Nhơn mới cáo lỗi cùng hàng phụ nữ, xin cho Nhơn thuật sự nợ tình; bởi ngồi đây những bực nữ trinh, nên ghét tiếng yến anh qua lại.
Nhơn nằng nằng xin giải, lại rằng: “Như cuộc tình ni, dầu ai nghe cũng phải động lòng, quới cô nghĩ đó coi, người ở an đôi ba vợ một chồng, tôi chút nghĩa đèo bòng mà bất hạnh. Kể từ buổi phụng loan kết cánh, tưởng cùng nhau trọn gánh cang thường, biết tiếng chi mà kể xiết tình thương, dè đâu nỗi đôi đường vô oan trái.
Cũng tại bởi cái thằng bất ngãi, dám tới phòng cướp gái giữa tam canh, nó đâm tôi vít tích mới lành, phận hiền nữ tử sanh không thấu. bắt Hai Long nó đem đi dấu, tưởng vầy câu giai ngẫu cho ưng, có dè đâu nó ở ác quá chừng, no đói mặc tình liệu lượng.
Để đến đỗi nàng mang bịnh trượng, tháng ngày không đoái tưởng chút thân, nhờ những người lối xóm cận lân, cơm thuốc lần lần qua buổi. Nói ra càng thêm tủi, ngày gặp tôi tuy rủi mà may, tôi bồng nàng nằm ngửa trên tay, nàng giải bày mới rõ.
Nàng than trối cùng tôi vậy đó, dứt tiếng rồi dị lộ vội xa, tống chung xong tôi trở lại nhà, nghĩa đứa gian tà thầm trách. Nói thì phải chỉ ra minh bạch, thằng sát nhơn chẳng cách xa đây, cũng lá ăn bận đồ tây, giả cách mấy thầy mà gạt chúng.”
Thoàn nghe nói tay chơn bủn rủn, ngồi làm thinh ngó xuống dưới bàn. Nhơn bức tình nư giận vội tràn, trợn mắt nghiến răng ngó tới. Ai ngồi đấy cũng lắc đầu chắt lưỡi, căm giận thằng bất ngỡi biết bao, bỗng phía ngoài có gái bước vào, da mặt ngó như màu bạch tuyết.
Nàng xăm xăm đi riết, tới tỏ việc cùng Thoàn, rằng: “lịnh công căn bịnh chẳng an, ước gặp cựu trối trăn đôi tiếng.”
Thoàn ngừa cơn nói chuyện, chơn bước lẻn ra ngoài, nhơn lật đật vói tay, quyết kéo day trở lại. Hoa cũng vừa ngó ngoái, nên xem thấy rõ ràng, hỏi: “Vậy chớ ông nào đây mà diện mạo đoan trang, in hình sống Ái nhơn chủ thiếp?”