Cơn ngộ biến không phang lo lắng, ngồi khoanh tay than vắn thở dài, mặt trời xem hầu đã về tây, nhắm thế ở lại đây chẳng tiện. Sợ dưỡng phụ quở la nhiều tiếng, rằng mình theo quyến luyện gió trăng, nếu bỏ về lỗi đạo gối chăn, tính sao đặng lưỡng toàn vô hại.
Nhơn lạy xin xóm giềng tưởng đoái: “Ra ơn giùm ở lại đôi canh, để tôi mau trở lại Bến Thành, đặng trình quá dưỡng thân lấm đắc.”
Bước ra đi chín từng ruột thắt, đau đớn dường dao cắt tâm cang, xét nỗi niềm đoạn thấm lại càng, nghĩ những lúc mắt chan đôi giọt. Nghe xe hú lòng thêm chua xót, chạnh cái thân bèo bọt mà thương, tưởng hết hồi thiên các nhứt phương, mừng đặng hiệp nhứt trường ngư thủy.
Dè đâu nỗi má hồng riêng lụy, khiến cho phận liễu bồ hữu thỉ vô chung, Hóa công ôi, hỡi Hóa Công! Nỡ bẻ gãy chữ đồng thậm ác!
Xe chạy mau thấm thoát, bỗng đâu toạt tới ga, Nhơn vẳng nghe tiếng nhạc ngó ra, thấy quả có đám ma qua cổng. Trước giá triệu chót cao lộng lộng, nối theo sau bàn phúng đủ màu, đàng Bắc Cấn lao xao, nhạc Tiều Châu lố xố.
Kìa Tam Tạng thỉnh kinh Đông Độ, cỡi ngựa theo ủng hộ vong linh, giọng kèn nam thổi rất động tình, tiếng tiêu quảng hòa in như khóc. Thấy quan tài cơn buồn càng giục, cảm phận người vô phúc mà than, thấy kẻ lăn người khóc bên đàng, kể những việc Dương gian Âm kiểng.
Nhơn lòng sầu tợ biển, lâm cuộc biến khôn toan, thấy dường ni cuộc biến bàng hoàng, thậm trách bấy hường nhan bạc mạng!
Bụng cũng muốn làm cho xứng đáng, mà đền ơn mấy tháng nưng khăn, ngặt vì mình trong túi đồng rằng, làm sao đặng rỡ ràng như thử. Phước nhờ đặng nuôi làm dưỡng tử, chẳng vậy thì hà xứ phiêu lưu, bây giờ đây biết định hà mưu, cùng dưỡng phụ phân ưu cho đặng?
Nhơn còn đang ngơ ngẩn, xe đã cận Sài Gòn, chen lấn người xuống chạy bon bon, về tới cửa cha con gặp mặt. Thấy bộ con biến sắc, nghị tội ác chi chăng, bèn kêu Nhơn ra trước hỏi phăng, bảo nói thiệt ngọn nghành nghe thử.
Nhơn bẩm: “Xin cha tha thứ, cho dưỡng tử phân trần, vả xưa con có một tình nhân, bề chăn gối mười phần quyến luyến, bởi gặp cơn nguy biến, hệ trời xui nên biển hóa cồn, con tưởng đà tán phách vong hồn, bề tin tức con không hãn thấy.
Nay gặp lại tưởng vầy giai ngẫu, mừng cho câu giải cấu tương phùng, có dè đâu số mạng đã cùng, nàng nằm tại quán trung thệ thế. Nếu để vậy lõa lồ thân thể, phận ôm cầm không dễ bỏ cho ai; bởi vậy cho nên con lật đật về đây, lạy dưỡng phụ tỏ bày hắc bạch. Cha nhẫn dầu thương không quở trách, ơn con nguyền kim thạch chi tâm.”
Cha nghe qua lời nói diệu thâm, ngồi lẳng lặng nghĩ thầm trong dạ: “Xử nghĩa vầy cũng đà phải quá, một lời nguyền vàng đá tri tri, không gối chăn còn chẳng nỡ bỏ đi, huống chi đạo xướng tùy buổi trước. Nay nàng dầu vô phước, kiều Ô vừa gặp Thước vội lìa, con dầu mong đáp nghĩa sớm khuya, cha há nỡ lấp cha sao phải.
Làm người tua trọn ngãi, vậy chẳng sái đạo người, làm sao cho miệng thế đừng cười, vậy mới khỏi hổ ngươi với thế. Con khá mau chơn kẻo trễ, vô Xóm Gà mướn kẻ giúp công, cha cho con trọn một trăm đồng, liệu cho thỏa tình chồng nghĩa vợ.
Như thiếu nữa có cha tư trợ, khuyên con đừng nghi sợ lòng cha; sáng ngày mai cha tới Xóm gà, con phải chực tại ga mà rước. Vô tới trỏng con phải tính đi mua hòm trước, vải tám đo cho được một cây, mướn người tới liệm thây, đừng rước thầy bá vất.
Nhiều tiền độ về Tây Phương Phật, ít bạc thì hồn dật Âm Quan, ba mươi đời cái thói dị đoan, bày gạt kẻ thế gian mà nuôi miệng! Bê luối thì động chuông đổ kiểng, vắn hơi su kiếm chuyện méo tròn, cứ việc, hễ thác thì liệm thì chôn, thác thì tiêu hồn tiêu xác.
Con cũng đừng rước nhạc, đánh đồng la nghe choát lỗ tai, hễ đám tang tức thĩ là đám ai, con chớ bày như đám hát. Con mà có nghĩ tình sau trác, cơm canh dưng đôi bát gọi là, ấy là thói tục nhà ta, tưởng như lúc một nhà sum hiệp.”
Nhơn vưng dạy chơn mau xá kíp, tuốt ra ga cho kịp chuyến xe, thảm thay, không ăn cơm bụng đói xóp ve, cứ hớp đỡ nước chè mà chịu!
Tuy vậy mà, lòng Nhơn mừng quính quíu, tay sẵn tiền để liệu để toan; vô tới nhà chợt thấy mặt nàng, Nhơn ôm khóc kể than thảm thiết: “Bậu ôi! Mới hết cơn ky biệt, mầng tưởng đà Hồ Việt nhứt gia, có dè đâu con tạo ghét chi mà, xui cho bậu cách ba thước đất! Tam xích thổ nợ trần trả sạch, ối thôi rồi, lệ trạch nhạn trầm, ba tất hơi vong phế nghĩa trăm năm, còn chi nữa, vân biên cù hóa!”
Nhơn kể nghe thảm quá, dầu cho sắt đá cũng phiền; khóc một hồi rồi móc túi lấy tiền, mướn người tựu đi khiêng hòm về liệm. Nhơn mới cậy xóm giềng đôi thiếm, ra mua đồ tiệm sửa sang, mướn dân làng đi thỉnh nhà vàng, đặng minh nhựt động quan di cữu.
Sáng ngày người tề tựu, Nhơn đãi ba chén rượu gọi là, rồi lật đật ra ga, đợi rước cha vào đấy. Cha Nhơn vô tới thấy, cuộc dường ấy động lòng, hối đạo tùy sửa soạn cho xong, đặng có ra công mai táng.
Lúc khiêng ra khỏi quán, đi lẳng lặng như tờ, mắt đượm nhuần chơn bước dật dờ, Nhơn nghĩ việc tóc tơ đau dạ. Bỗng đâu đã tới nơi huyệt mả, dưới bóng cây nhánh lá sùm dề, phía dưới chơn lại có gốc me, gặp tiết đơm huê trổ lá, bên tả thấy nầm mồ xây đá, chôn lâu đời nay đã bỏ hoang, bên hữu thì mả đất nghing ngang, đếm không biết mấy ngàn mà kể.
Xem cảnh vật bốn bề vắng vẻ, nghe tiếng chim thỏ thẻ trên nhành, người sầu riêng gặp cảnh buồn tanh, dồn dập cái khối tình càng nặng.
Hài cốt vừa an táng, người đều tản ra về, ơn nghĩa đâu bồi đáp phủ phê, cha con mới lên xe hồi cố. Nhơn mới tính mua đá làm bia mộ, kẻo lâu năm mả lạc khó nhìn, khắc chữ vào bia gọi chút tình, cho trọng đạo bố kinh cùng bạn.
Mọi đàng Nhơn sắm sẵn, kêu xe chở thẳng tới mồ, vừa mới bước vô, thấy nấm mồ liền khóc. Dòm nổng đất cả xanh mới mọc, hỏi vậy chớ có phải giọt lụy nầy tưới gốc đó chăng?
“Bậu ôi! Tưởng cùng nhau giữ trọn đạo hằng, nào hay nỗi xích thằng lỡ mối. Mới cùng nhau khi tối, chưa kịp mừng nàng vội xa chơi, bậu ôi! Nằm chi đây chiếu đất màn trời, sao chẳng dậy bày lời hơn thiệt. Một ngày cũng gọi tình Hồ Việt, nên qua dựng bia nầy than tiếc, ngỡi Châu Trần chẳng chi đáp thửa ân, chút rượu lạt hương đăng xin chứng.”
Nơi chơn mộ đá bia liền dựng, nét chữ đề chói dợn màu son, bao giờ cho đá nát chữ mòn, bể ái nguyện cũng còn đầy đủ.
Câu rằng:
Ái nương ôi!
Tình trước nàng không phụ,
Nghĩa sau ta há quên,
Một ngày tơ xe chặt,
Muôn thuở tóc kết bền!