Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt

Chương 45




Ali Dossari chỉ đưa ra thông tin nhỏ giọt. Mỗi ngày một mảnh ghép lại xuất hiện, thường là sau khoảng chín tiếng thẩm vấn thất bại. Các thám tử đều đã chán ngấy, nhưng Katya ngờ rằng Dossari sẽ tiếp tục trò chơi này ngay cả khi Mu'tazz đã quyết định dùng đến chiếc roi của mình. Hắn không có gì để mất cả.

Bọn họ đã dựng được một bức chân dung về hắn qua những hồ sơ được tìm thấy trong nhà hắn, từ lịch sử bệnh lý, và từ những tài liệu pháp lý. Bọn họ cũng đã phỏng vấn các khách hàng của cửa hiệu trang sức và hàng xóm của Dossari nữa. Nhưng điều mà họ cần là một lời thú tội: đúng, tôi đã giết những phụ nữ đó.

Trong không khí im lặng đầy phẫn nộ của phòng quan sát, những người đàn ông đang trao đổi về bàn tay bị mất của hắn. Thật buồn cười khi một người thợ kim hoàn lại mất một bàn tay. Hắn ta đã đánh cắp các mặt hàng của mình chăng? Không, hắn đã nói với các khách hàng của mình, điều đó chỉ có nghĩa là hắn biết làm thế nào để phát hiện ra một tên trộm mà thôi. Ở Jamjoon, người ta tôn trọng hắn. Hắn hơi cách biệt, không bao giờ nói chuyện trên mức thì thầm. Một tai nạn với nitrat khi còn nhỏ đã làm hỏng thanh quản của hắn. Điều đó khiến hắn có vẻ nhẹ nhàng và tốt bụng.

Bọn họ đã tìm thấy một chiếc GMC trắng nhãn hiệu thể thao trong nhà xe của hắn. Trong thùng xe là hai mảnh nam châm lớn, loại có thể dùng để dính chặt vào cửa xe, cả hai đều được in logo của một công ty taxi giả mạo. Bọn họ cũng tìm được một công-tơ mét của xe taxi đã bị vỡ và một tấm thẻ ghi danh hắn là nhân viên của công ty bịa đặt đó.

Ngày hôm qua, họ đã buộc hắn phải khai ra việc hắn đã sử dụng một chiếc SUV giả làm taxi - để đón khách nữ giới ở khu cầu trên phố Sitteen. Hắn nói hắn thích những cô gái người Philippines. Bọn họ rất háo hức ngồi vào xe của hắn khi hắn mời chào sẽ giảm giá. Nếu thấy chán khu Sitteen, hắn sẽ đến những nhà hàng châu Á ở những khu vực khác nhau trong thành phố. Khi họ dồn ép hắn về trường hợp của May Lozano, hắn chỉ khẽ mỉm cười tự mãn và nói. “Cô ta cần được thuyết phục.”

Họ không biết chắc hắn đã “thuyết phục” cô ta giữa phố đông người như thế nào mà không bị ai để ý tới, nhưng khi họ bắt đầu đặt câu hỏi, thì hắn im thin thít và không nói gì thêm.

Người phụ nữ trong căn hầm của hắn không phải là Amina al- Fouad. Amina đã chết, như hắn nói, và hắn sẽ không cho biết bà ta ở đâu. Căn phòng đã được dọn sạch, nhưng họ tìm được bàn tay còn lại của bà ta trong tủ lạnh. Nó đã bị chặt sau khi bà ta chết. Những vết máu của bà đã được tìm thấy trong ống thoát nước của căn buồng nhỏ bằng Plexiglas, có khả năng bà cũng đã bị giam giữ ở đó.

Người phụ nữ được tìm thấy trong tầng hầm khi cảnh sát đến có tên là Bassma Gilani. Đôi tay cô ta vẫn còn nguyên vẹn. Cô ta là người Ả Rập Xê-út, và còn trẻ - mới mười bảy tuổi. Bố mẹ của cô ta đã được thông báo, và khi lục soát phòng ngủ của cô ta họ đã tìm được một chiếc hộp đựng trang sức giống với chiếc hộp Amina đã mua. Chữ cái đầu tiên của cái tên Bassma phù hợp với giả thuyết bảng mẫu tự của Katya, rằng kế hoạch mới của Dossari là giết phụ nữ theo tên gọi của họ, theo trật tự của bảng chữ cái. Katya ngờ rằng hắn đã chôn Amina sau khi đặt tư thế cho cái xác của bà ta theo đường thẳng đứng - hình chữ A

Có hai chiếc tủ lạnh lớn đặt dưới tầng hầm của hắn. Các điều tra viên đã tìm được bàn tay còn lại của Amina ở một chiếc. Trong chiếc còn lại, họ tìm được mười tám bàn tay. Tuy tất cả những công việc trong phòng thí nghiệm chưa được hoàn tất, nhưng Katya có phần ngờ rằng DNA của các bàn tay này sẽ phù hợp với DNA của các nạn nhân ngoài sa mạc. Tên giết người đã giữ lại một bàn tay như một vật tế cho mỗi vụ giết người ngoại trừ một trường hợp. Cả hai bàn tay của May Lozano đã được tìm thấy tại khu chôn cất đó. Trong tủ lạnh người ta chỉ tìm được một chiếc nhẫn nhỏ. Dossari đã cần cả hai bàn tay của Lozano để tạo dấu phụ bên dưới chữ cái thứ hai trước chữ cái cuối cùng để hoàn tất thông điệp ở sa mạc, cho nên hắn giữ lại chiếc nhẫn làm vật tế thay thế.

Trung úy Daher đã mang chiếc nhẫn đó đến gia đình chủ nhà của Lozano, họ xác nhận nó chính là thứ mà cô ta mua trước khi mất tích. Họ nhớ chiếc nhẫn đó bởi nó mang viên đá tượng trưng cho tháng sinh của cô ta, viên peridot. Cô ta đã không hề biết về những viên đá tượng trưng cho tháng sinh trước khi mua nó, nhưng màu xanh lá cây chính là màu yêu thích của cô ta, và cô ta đã rất vui khi khám phá ra điều đó. Cô mua nó tại một cửa hàng đồ trang sức ở Jamjoom.

Katya ngờ rằng có điều gì đó khác thường về vụ giết Lozano. Cô ta là nạn nhân duy nhất trong số những nạn nhân được chôn ngoài sa mạc mà Dossari gặp ở hiệu bán đồ trang sức của hắn. Và cô là một trong những nạn nhân cuối cùng của nhóm đó. Có lẽ việc giết cô ta đã khiến hắn nảy sinh ý định lựa chọn nạn nhân trong số khách hàng của hắn. Khi hắn thấy sự mất tích của Lozano không gây ra rắc rối nào, hắn bắt đầu lên kế hoạch cho những vụ giết người tiếp theo với cách hành động thậm chí còn táo bạo hơn. Cách đó rõ ràng là mạo hiểm hơn việc bắt các nạn nhân trên phố. Nó cũng giải thích tại sao đối tượng nạn nhân của hắn đã thay đổi. Thay vì giết người nhập cư, hắn đã chuyển sang giết những phụ nữ Ả Rập Xê-Út. Có lẽ khách hàng của hắn chủ yếu là những người Ả Rập Xê-Út giàu có.

Trở lại năm 1996, hắn mở một cửa hàng bạc ở Souq al-Bado dưới cái tên Zeddy al-Munir. Ba năm sau, hắn đã đánh cắp một xác chết trong nhà xác thành phố và bị bắt quả tang cùng với cái xác đặt trong thùng xe của mình. Cái xác này là của một cô gái mười chín tuổi chết vì bệnh bạch cầu. Gia đình của nạn nhân là một gia đình thế lực. Kinh hoàng trước những gì hắn làm, bọn họ sắp xếp để hắn phải chịu một sự trừng phạt nghiêm khắc vì tội ăn cắp, và cơ quan hành hình của thành phố đã chặt đứt một bàn tay của hắn.

Do nhục nhã bởi hình phạt đó, hắn đổi tên thành Asif Dakheel và bắt đầu lại từ đầu. Với cái tên mới, hắn thuê một mặt bằng ở Trung tâm Jamjoom và mở một cửa hàng bán đồ trang sức, không thật sự sinh lời nhưng chắc chắn hơn.

Mười năm trước hẳn phải là khoảng thời gian bận rộn đôì với hắn, Katya ngẫm nghĩ. Hắn đã mở cửa hiệu Rayhan Jewelers; giết nạn nhân đầu tiên là Amelia Cortez; và nhận thấy việc khiến một người nhập cư biến mất quả là dễ dàng. Cảnh sát ít có chiều hướng theo dõi các trường hợp về người nhập cư, bỏi số lượng những vụ như vậy cũng như khó khăn trong việc lần theo những vi phạm về thị thực và việc ở lại quá thời hạn hành hương. Hành động tự do giết người của Dossari không hề bị chú ý trong suốt một thập kỷ.

Lúc này quan sát hắn, Katya cảm thấy vô cùng căm phẫn trong từng đường gân thớ thịt. Cô cầu Chúa bằng suy nghĩ nung nấu và thầm lặng của mình: Nếu Người đang lắng nghe con, xin Người hãy giúp con toại nguyện: Người hãy loại bỏ con người bệnh hoạn đó khỏi thế giới này và hãy đày hắn xuống nơi xa nhất của Jahannam.(2)

(2) Tức địa ngục

Khi Mu'tazz bước vào để nói chuyện với Dossari, cô rời khỏi phòng quan sát. Cô không muốn nhìn cảnh đánh đấm nữa, không muốn phải cảm thấy thương hại cho tên giết người đó. Nhưng khi cô vừa đi ra thì Mu'tazz cũng rời khỏi phòng thẩm vấn. Ông ta đang lật qua lật lại tập hồ sơ của mình như thể ông ta đã quên thứ gì đó.

Mu'tazz nhìn thấy cô trong hành lang và dừng lại. Họ không hề nói chuyện với nhau từ sau cuộc trao đổi trên điện thoại ở khu mua sắm.

“Cảm ơn cô, cô Hijazi, vì những việc làm của cô.”

Cô chăm chú nhìn ông ta. Ông ta không nhìn cô nên ông ta nói chuyện với một điểm vô hình phía trên đầu cô.

“Việc đình chỉ cô đã được hủy bỏ,” ông ta nói, “trong khi chờ đợi có một cuộc điều tra đầy đủ.”

Cô vẫn không thích ông ta, nhưng nếu muốn tiếp tục làm việc ở Đội Trọng án, cô sẽ phải chấp nhận đối diện với ông ta.

“Cảm ơn ông.” Cô nói.

Mu'tazz quay đi và bước về phía hành lang.

Ibrahim và Saffanah đang ngồi trước TV thì người cảnh vệ mở cửa và Osama bước vào.

“Chúc tốt lành.” Osama nói. Anh ta mang dáng vẻ mà Ibrahim đã thấy trên nét mặt của anh trai ông mấy ngày trước đó. Ibrahim đứng lên. “Tôi đến để đưa anh đến trụ sở toà án.” Osama nói. “Luật sư của anh muốn anh trình bày chính thức trước mặt thẩm phán. Việc này có thể mất vài tiếng.”

Giờ thì Sabria đã chết, sẽ khó để gia đình Jamila giành phần thắng trong vụ kiện ngoại tình này, nhưng dù thế nào thì bọn họ sẽ vẫn theo đuổi vụ kiện. Luật sư của Ibrahim đã đảm bảo rằng ông không phải lo lắng gì, ông sẽ không bị xử tử hình nếu không có người làm chứng cho mối quan hệ bất chính của ông với Sabria. Tuy vậy sự việc này cũng khiến ông bị hạ nhục, đó chính là điều mà Jamila và gia đình bà ta mong muốn.

Saffanah ngay lập tức đứng lên. Kể từ khi bọn họ nói chuyện về bố đứa trẻ trong bụng cô ta, cô ta đã không rời ông đến nửa bước. Họ thậm chí còn ngủ trong phòng khách trên hai chiếc sô-pha đối diện nhau. Mỗi khi ông tỉnh giấc vào ban đêm lại thấy khuôn mặt của cô ta trong ánh sáng lập lòe của màn hình TV. Cô ta luôn mở to mắt ngay sau đó, như thể vì họ ngồi với nhau trong cùng một căn phòng trong hàng giờ liền nên nhịp điệu của họ đã gắn chặt vào nhau và cô ta có thể cảm thấy khi nào ông tỉnh giấc. Cô ta sẽ lặng lẽ nhìn ông một lát. Ánh nhìn của cô ta mang một thông điệp, nhưng ông không bao giờ nhận ra liệu đó là lời cầu xin đầy sợ hãi là đừng tiết lộ bí mật của cô ta hay là lời cổ vũ âm thầm để ông mạnh mẽ lên, hãy cứ ngủ đi và để dành sức lực của mình cho trận chiến. Sau đó cô ta sẽ trở mình và ngủ tiếp.

Trong những giờ phút thiêng liêng và huyền bí của bóng đêm, ông thấy nhớ Sabria, cái cách mà ông vẫn thường tỉnh giấc và thấy cô đang nhìn mình, kiên nhẫn chờ đợi ông mở mắt để cô có thể quấn lây ông theo một tư thế khác, điều chỉnh tư thế của cả hai người rồi ngủ tiếp. Ngay cả lúc này đây, ông có thể ngửi thấy mùi hương ngọt ngào của làn da cô. Ông cầu Chúa, người mà ông tin tưởng, và cầu xin có được thông tin, sự minh mẫn, lời khuyên. Chúa đã trả lời ông bằng những giấc mộng khổ sở trong khoảng không đen tối chỉ khiến ông càng thêm đau đớn buồn nản hơn.

Ibrahim xỏ chân vào giày và vơ lấy chiếc áo khoác treo phía sau cánh cửa. Saffanah bước đến và ngang nhiên đứng bên cạnh Osama, như thể thách thức ông ta dám buộc cô ta phải ở lại.

“Có lẽ con không nên...” Ibrahim lên tiếng.

“Con sẽ đi.” Cô ta nói.

Osama không có phản ứng gì, nên Ibrahim đi theo viên thám tử ra ngoài xe, và Saffanah đi theo bọn họ. Trung úy Shaya đã ở đó với vẻ vui mừng lặng lẽ khi được gặp lại vị sếp cũ. Anh ta vẫy vẫy tay qua cửa sổ xe và liếc nhìn Saffanah một cách tò mò trước khi bọn họ khởi hành.

Ibrahim ngạc nhiên khi bọn họ chuyển hướng về phía nam trên đường Medina, chạy thẳng theo hướng sai hoàn toàn. Ông không nói một lời nào. Nếu Osama mà còn không biết mình đi đường nào, thì ông không có ý định chỉnh ông ta. Bên cạnh ông, Saffanah đang lặng lẽ nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ.

Nhìn ra khu ngoại ô lộn xộn, những khu nhà chung cư ngổn ngang, những toà tháp thương mại, và những khu nhà kho, bỗng nhiên ông nhận ra chúng mới đẹp làm sao, vẻ hỗn độn, phi cấu trúc và nhếch nhác, cả một thành phố bằng bê-tông đang phát triển nhanh như cỏ dại nhưng vẫn giữ được chân giá trị thầm lặng trong sự hỗn mang của mình. Chắc chắn, ông nghĩ, còn có cả ngàn gã đàn ông khác cũng giống như ông đã phạm phải những sai lầm đủ để hủy hoại cuộc đời, sự nghiệp và gia đình của mình, nhưng chắc chắn những người đó vẫn phải tiếp tục, cũng như gia đình của bọn họ. Luôn có khoảng không cho mọi thứ ở cái nơi mênh mông và hỗn độn này.

“Chuyện với Ubaid thế nào?” Ibrahim hỏi.

Osama liếc nhìn ông trong gương chiếu hậu. “Hắn không giết ai cả.”

“Tôi biết.” Ibrahim nói. “Tôi biết là hắn không giết cô ấy. Đó là một gã khác, al-Adnan. Nhưng Ubaid hẳn đã biết về cô ấy. Suốt khoảng thời gian vừa rồi tôi đã nghĩ hắn theo dõi tôi, nhưng không phải. Hắn theo dõi cô ấy.”

“Có thể.”

“Không phải là có thể.” Ibrahim nói. “Ngay từ phút giây hắn nghe về việc cô ấy mất tích, hắn đã cố tìm ra tội lỗi nào đó của cô ấy. Tôi có thể cảm thấy điều đó. Hắn ta phải biết chắc. Chẳng lẽ anh định nói với tôi rằng đó chỉ là tình cờ khi kẻ cô ấy tống tiền lại được giao trách nhiệm tìm kiếm cô ấy sao?”

“Họ cho rằng Ubaid và al-Adnan có thể biết nhau.” Osama thừa nhận. “Cả hai tham gia cùng một câu lạc bộ huấn luyện chim ưng. Thậm chí có thể chúng cò nđi săn cùng nhau nữa. Nhưng chúng tôi không có bằng chứng nào cho thấy chúng đã trao đổi về vụ tống tiền cả. Nó vẫn chỉ là một sự liên hệ thiếu xác thực.”

“Ồ, thôi nào!”

“Liệu anh có nói với ai đó là anh đang bị tống tiền không?”

“Có chứ. Có thể. Nghe này, cô Hijazi đã nói với tôi rằng Sabria đã phát hiện ra những kẻ đó qua mối quan hệ của cô ấy ở Sitteen. Cô ấy đã tìm những phụ nữ bị chủ nhà lạm dụng, và đó chính là cách cô ấy tìm những nạn nhân tống tiền của mình. Nhưng Ubaid là ngoại lệ. Hắn chắc chắn là một ngoại lệ. Cô ấy đã làm việc với hắn ở Đội Điệp vụ. Đó có lẽ là cách cô ấy phát hiện ra khuynh hướng đó của hắn ngay từ đầu.”

“Có thể.” Osama nói. “Nhưng nó không có nghĩa là hắn đã biết cô ấy là kẻ tống tiền.”

Ibrahim ngồi lại. “Vậy thì trở lại câu hỏi của tôi: chuyện với Ubaid thế nào?”

Osama nghiến răng. “Hắn vẫn khai rằng đó không phải là cưỡng hiếp, mà là đồng thuận. Và cho đến khi nào chúng tôi tìm được người phụ nữ trong đoạn băng đó, chúng tôi không thể bác bỏ lời khai của hắn được. Anh cũng hiểu cách thức rồi đấy.

“Tôi chỉ muốn tự mình giết chết hắn.”

“Thôi nào, đừng có hủy hoại sự nghiệp của anh vào lúc này.” Osama nói.

Bọn họ rẽ sang một con đường nhánh song song với đường Makhzouni và đi vào phố Televisio ở khu Ghulail, khu nhà chuyên rửa ô-tô có tiếng, nơi những người đàn ông Châu Phi luôn đứng sẵn trong mọi ngóc ngách với những chiếc xô và giẻ lau, vẫy khách qua đường. Bọn họ mặc kệ chiếc xe cảnh sát, mặc dù nó không mang đèn hiệu. Hầu hết những lao động này đều là bất hợp pháp; bọn họ phải để mắt đến luật lệ. Một vài người đã lánh vào các ngõ ngách, nhưng hầu hết chỉ tiếp tục công việc của mình. Tuy khu vực này có vẻ hỗn loạn, nhưng những lao động đó đều chịu sự quản lý của một vài ông chủ, nói đúng hơn là một băng đảng chuyên kinh doanh dịch vụ rửa ô-tô, dẫu rằng những kẻ cầm đầu vẫn có đủ lòng tốt để thực hiện zakat (3) bằng cách trích mười phần trăm thu nhập của chúng để bố thí cho những người còn nghèo khổ hơn cả những lao động đang làm việc cho chúng.

(3) Một trong “Năm trụ cột của Hồi giáo”, tức là năm bổn phận tôn giáo mà các tín đồ Hồi giáo phải thực hiện. Năm trụ cột này bao gồm: (1) Shahadah, là sự tuyên xưng và là điều cốt lõi trong đức tin của các tín đồ Hồi giáo; (2) Salah, là việc cầu nguyện hằng ngày; (3) Zakat, là sự bố thí; (4) Sawm, việc nhịn ăn trong lễ Ramadan; (5) Hajj, là việc hành hưong tới thánh địa Mecca, ít nhất một lần trong đời.

Khi chiếc xe ra đến phố Mahjar, Ibrahim nhận ra rằng bọn họ đang chạy về hướng Bệnh viện Vua Abdul Aziz.

“Chuyện gì thế này?” Ông gọi với lên phía Osama.

“Để tạm dừng một lát thôi.” Osama đáp.

Bọn họ lái lên đoạn phố yên tĩnh dưới bóng hàng cọ, xuyên qua bãi đỗ xe bao quanh bởi đám cây bụi um tùm và xanh mướt rồi dừng lại ngay trước mặt tiền bệnh viện. Osama để Shaya lo vấn đề của chiếc xe và ra hiệu cho Ibrahim và Saffanah ra ngoài.

Với sự ngạc nhiên và mỗi lúc một sợ hãi, Ibrahim ra khỏi xe. Saffanah theo sau ông. Bệnh viện này là để dành cho các thành viên và các dòng họ của Đội Cận vệ Quốc gia. Ông không thể hình dung ra được ông và Saffanah đang ở đây để làm gì. Bọn họ đi theo Osama vào cửa phụ, qua một bàn an ninh rồi đi xuôi một hành lang dài.

Osama đưa họ luồn lách qua một mê cung và dừng lại ở một căn phòng nhỏ. Một phụ nữ mặc áo trùm và đeo mạng che mặt đứng bên cạnh cửa. Cô ta mở cửa.

Bọn họ bước vào trong. Căn phòng trống không.

Osama lấy từ trong túi một tập giấy được gấp lại và một chùm chìa khóa. “Cầm lấy đi.”

“Gì vậy?”

“Chùm chìa khóa của chiếc ô-tô đang đỗ cạnh toà nhà này và một tấm bản đồ để đến nơi anh phải đến.”

“Anh đang đùa tôi đấy à?”

Osama lắc đầu. “Trong ngăn đựng găng tay của ô-tô, anh sẽ thấy một chiếc phong bì, trong đó có ít tiền, một tấm hộ chiếu giả và thẻ tín dụng. Anh sẽ lái xe ra bên cảng. Có một chiếc thuyền ở đó sẽ đưa anh ra khôi đất nước này. Trên thuyền sẽ có quần áo cho anh thay.”

“Anh sẽ mất việc vì vụ này thôi.”

“Sẽ không thể nếu bọn họ không tìm được anh.”

“Con sẽ đi cùng bố.” Saffanah lí nhí nhưng đủ để cắt ngang bọn họ.

“Không được.” Ibrahim quay sang cô ta. “Bố sẽ không đi đâu hết. Chúng ta không đi đâu hết. Chúng ta sẽ quay về nhà.”

“Con phải đi.” Cô ta nói.

“Con không thể...” Ông tự dừng lại và nhận ra mình mới xuẩn ngốc làm sao. Dĩ nhiên là cô ta phải đi rồi. Cô ta đang mang trong mình bằng chứng của việc ngoại tình, và nó sẽ sớm lộ ra thôi.

“Cô ấy có thể đi cùng anh.” Osama nói. “Nói với họ đó là vợ anh. Cô ấy không cần hộ chiếu.”

“Bố sẽ nói với con điều này.” Ibrahim nói với Saffanah. “Bố sẽ đưa con ra bến cảng, và bố sẽ đảm bảo để con lên được chiếc thuyền đó.”

“Gì cơ?” Giọng cô ta lúc này thé lên. “Con không thể đi một mình được.”

“Cô ấy nói đúng đấy.” Osama nói.

“Anh đứng ngoài vụ này đi.” Ibrahim nói với ông ta. Ông quay lại phía Saffanah và đột nhiên không biết nói gì nữa. Con nên ở đây chăng? Nên đối diện với những lời buộc tội và những hình phạt sẽ đến với con chăng?

Cô ta liếc nhìn Osama. “Chiếc thuyền đó sẽ đi đâu vậy?”

“Ai Cập.” Ông ta nói.

Cô ta quay sang Ibrahim không một chút do dự. “Con phải đi.”

“Saffanah...”

“Đó là nơi duy nhất con có thể đến.” Cô ta nhìn Osama rồi lại nhìn Ibrahim.

Osama nhận ra Ibarhim đã đầu hàng. Ông ta ra hiệu cho bọn họ lại bên cửa sổ. “Hãy đi đi trước khi chúng ta bị bắt gặp.”

Saffanah đi trước và Ibrahim đi theo, cả hai đều nhảy xuống bụi cây ở gần dưới đó. Ông tự nhủ rằng ông sẽ chỉ đưa cô ta lên thuyền. Trái tim ông đang đập loạn xạ, các giác quan của ông đang tập trung cao độ khi ông lướt nhìn để tìm bất cứ dấu hiệu cử động nào trong những lùm cây. Khi ông nhìn trở lại phía cửa sổ thì Osama đã biến mất.

Bọn họ trườn dọc theo cánh của toà nhà cho đến khi thấy chiếc ô-tô đỗ nửa kín nửa hở bên hàng rào. Ông đưa tấm bản đồ cho Saffanah.

Ông đã phải cố gắng tập trung lái xe. Thông tin được nạp vào. Saffanah đang nói trong sự lo lắng tột cùng. Rẽ trái ở đây. Rẽ phải. Cô ta đã thắt dây an toàn vào.

Bọn họ đã đến bến cáng, và chồng của Katya đang ở đó, đúng trên chiếc thuyền có đánh dấu mờ mờ bằng biểu trưng của Đội Tuần tra Bờ biển. Lúc đó mọi chuyện với ông trở nên rõ ràng. Dĩ nhiên ông không thể để Saffanah đi một mình được. Ông phải hộ tống cô ta ra khỏi đất nước này, ít nhất là đảm bảo rằng cô ta sẽ bắt đầu lại ở một nơi nào đó. Nayir giục họ lên thuyền và xuống khoang ngay, ở đó họ sẽ không bị phát hiện, và Saffanah đi trước không một chút do dự.

Bọn họ ngồi trên một chiếc đi-văng nhỏ được gắn với thân con thuyền. Khi con thuyền gặp quãng sóng dập dềnh, Saffanah chạy ngay vào phòng vệ sinh nôn thốc tháo, còn ông thì nắm chặt chiếc gối ôm, tự kìm nén cơn buồn nôn của mình, và cố hết sức để không nghĩ đến tất cả những gì bỏ lại phía sau.

* * *

Ali Dossari bị chặt đầu trong bãi đỗ xe của nhà thờ Jufalli ở Jeddah. Do việc công khai xét xử hình sự đối với vụ án này, nên lực lượng cảnh sát và cơ quan cấp bộ đã thu xếp để việc hành quyết được thực hiện vào một ngày thứ Sáu, sau lễ cầu nguyện buổi trưa, thời điểm mà mọi người đều chờ đợi. Bộ Nội vụ cũng đã quyết định hình phạt dành cho tên giết người là một hình phạt đặc biệt.

Khi đao phủ chặt đầu Dossari, bác sĩ có mặt trong tất cả các vụ hành hình - chủ yếu là để xác định việc chặt đầu đã thực sự giết chết tên tội phạm chưa - đã được chỉ đạo phải khâu đầu của Dossari trở lại thân xác hắn. Bác sĩ đó đã có kinh nghiệm trong việc này, bởi một số gia đình nhất định đã yêu cầu thủ tục đó trước khi chôn cất người chết. Khi chiếc đầu được khâu trở lại thân mình, cái xác sẽ được treo bằng dây lên cột được đóng chính giữa bãi đỗ xe đó. Cái xác sẽ bị phơi ở đó cho đến hết ngày, dưới sự canh gác của cảnh sát, nhờ vậy mà mọi người sẽ thấy được chuyện gì sẽ xảy ra với kẻ đã gây ra nhũng tội ác vô cùng tàn bạo đó.

Những vụ hành hình kiểu “đóng đinh” đó là rất hiếm - đó có lẽ là vụ thứ hai trong vòng ba mươi năm qua - nhưng Bộ đã công khai cho phép cách thức đó. Và trong khi các nhóm nhân quyền kêu gào thảm thiết, thì bất cứ người nào đọc kinh Koran đều biết đến lời biện minh này.

Hình phạt dành cho những kẻ đã thực hiện cuộc chiến chống lại Allah và Người Đưa tin của Người, và cố gắng bằng tâm lực để gây điều ác trên thế gian này sẽ là: xử tử; hoặc đóng đinh, hoặc bị chặt bàn tay và bàn chân của bên đối diện... đó chính là điều ô nhục của chúng trên thế giới này, và sẽ có hình phạt nghiêm khắc dành cho chúng ở thế giới bên kia.

Cuối ngày hôm đó, họ hạ cái xác của Dossari xuống. Họ thực hiện nghi lễ cuối cùng dành cho hắn, lau rửa và trì tụng thích đáng, rồi chôn cất hắn trong nghĩa trang của thành phố. Mặc dù có người nói rằng những hành động của hắn đã xuyên tạc đạo Hồi và hắn không xứng đáng được coi là một tín đồ Hồi giáo và do đó không xứng để có một đám tang theo hình thức của đạo Hồi, quốc gia vẫn có chính sách rằng ngay cả những tên sát nhân cũng nên được đối xử như người Hồi giáo và được giữ một phẩm giá nhất định khi chết.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.