Chẳng mấy chốc hai người đã tới chỗ Hồ Nguyên Trừng bị giam lỏng. Vì Nguyên Trừng không học võ nghệ, nên chỉ cần cắt cử mấy binh lính canh chừng là đủ. Bản thân chàng lại không có ý muốn trốn, nên cũng không cần lo người khác sẽ cướp ngục.
Hồ Đỗ trông cái lều chứa củi tồi tàn nằm hớ hênh ở rìa doanh trại, canh phòng lỏng lẻo thì mắng:
“ Làm gì thế này? Ngộ nhỡ đêm hôm Mộc Thạnh cho quân xông tới ám sát tướng quốc thì phải làm sao bây giờ? ”
Hồ Xạ khẽ lắc đầu, không nói tiếng nào hết. Ngay khi đó từ xa bỗng bước lại một đám người. Dưới ánh đuốc rọi sáng, thì té ra là hai người Nguyễn Công Khôi, Nguyễn Tông Đổ và thuộc hạ. Hai người này một để bại trận Mộc Hoàn, một thì thua mất thành Đa Bang, đi cùng nhau đúng là ngưu tầm ngưu mã tầm mã, nồi nào úp vung đó. Hồ Đỗ vừa trông cái mặt câng câng vênh váo của Nguyễn Tông Đỗ là thấy ghét, toan rút rìu ra.
Nguyễn Tông Đỗ cười khinh khỉnh, nói:
“ Hồ Đồ thì muôn năm vẫn cứ là Hồ Đồ, sao hiểu được tầm nhìn sâu xa của thánh thượng? Đây người ta gọi là chốn nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất. Ài, củi mục khó đun mà chổi cùn thì khó quét, đúng là chẳng sai. Ngu ngốc như ai đó cũng làm đến được chức thống lĩnh tam quân… ”
Đám người đi theo ai nấy đều hùa theo, nghị luận lớn tiếng ngay trước mặt hai người Hồ Đỗ Hồ Xạ, giọng điệu rất là hống hách. Hồ Đỗ hừ một tiếng, dậm chân vung rìu chém mạnh một nhát. Tông Đỗ rụt vội cổ lại, nhưng quai cài mũ giáp đã bị Đỗ chém đứt.
Hồ Xạ cười khẩy, rồi vẫn với cái kiểu nói chữ thương hiệu của mình, cất tiếng:
“ Đục thành lùa voi, đúng là kế của bậc lương đống hiền năng. Giục ngựa chạy nhanh chẳng ngó ngàng bộ hạ, ấy thực là phong thái của kẻ làm tướng. Để Nguyễn tướng quân ra trận, cũng như năm xưa Triệu vương bỏ Pha lấy Quát (*) vậy. ”
Nguyễn Tông Đỗ nghe mà giận tím tái mặt mũi. Y cũng là người đọc sách, nên chỉ nghĩ một chút là biết Hồ Xạ đang mỉa mai mình. Song đánh thì đánh không lại hai người, y đành phất mạnh tay áo, trước khi bỏ đi còn nói:
“ Thái Bình bị phá, hai người nào đó cũng bỏ chạy thục mạng thôi. ”
Hồ Đỗ Hồ Xạ không muốn chấp kẻ tiểu nhân, nên im lặng chẳng thèm đáp. Thời gian không có bao nhiêu, họ muốn tranh thủ gặp được Hồ Nguyên Trừng nhiều chút nào thì hay được chút ấy.
“ Tả tướng quốc… ”
“ Ngồi đi. ”
Hồ Nguyên Trừng nay chỉ mặc độc một chiếc áo mỏng màu trắng, dù không đeo gông song trông cũng chẳng khác tù phạm là mấy. Trong lều không có đèn đóm gì, Hồ Đỗ phải xin lửa của lính canh để tiện nói chuyện. Mấy người lính còn dặn y cẩn thận củi lửa, rồi mới dúi vào tay Hồ Đỗ một cây đuốc. Củi này củi ướt, khói toả nhiều còn ánh lửa thì không được đượm.
“ Tướng quốc đã biết trước hai đứa tôi sẽ đến? ”
Hồ Xạ thấp giọng hỏi, không tin vào mắt mình.
Hồ Nguyên Trừng không vội đáp mà chờ Hồ Đỗ xin lửa vào, rồi mới ra hiệu hai người ngồi xuống trước mặt mình. So với nửa tháng trước, có nét gì đó buồn buồn, lẫn một chút mỏi mệt vương lại trên gương mặt chàng. Hai đốm lửa leo lét và vàng vọt chăm chăm về phương xa, lởn vởn giữa làn khói mù.
“ Thánh thượng hứa với hai người các ngươi, rằng nếu thắng trận sẽ tha bổng cho ta, có đúng vậy không? ”
“ Tướng quốc đoán việc như thần. ”
Hồ Xạ không dám nhiều lời. Đến tận hôm nay, ngồi ở trước mặt Hồ Nguyên Trừng, y cũng chỉ dám nhận mình có chút khôn vặt mà thôi. Y chóp chép miệng, nuốt khan hai lần. Không khí sao đột nhiên căng thẳng quá. Bàn tay Hồ Xạ trộm đổ mồ hôi. Y quệt vội vào áo, rồi mới gật nhẹ đầu thừa nhận.
Hồ Nguyên Trừng nói tiếp:
“ Giặc Minh thế đã mạnh, Trương Phụ và Mộc Thạnh một kẻ có trí kẻ kia có dũng. Trong khi quân ta lại không được lòng dân, văn thần võ tướng nhà Trần ngoài mặt thì thuận theo, trong dạ e hãy còn hướng về cựu triều. Aizz…
Ta đã suy nghĩ kĩ, nhận thấy lời của hoàng huynh cũng không phải là không có lí. Biểu hiện khác thường của giặc trên chiến trường rất có thể là chiêu che mắt của Trương Phụ, muốn khiến ta cẩn trọng để mà kéo dài thời gian. Cũng như lần trước đánh trận giang chiến, ta dùng kế sắp hình nhân trong rừng vậy.
Hồ Xạ, Hồ Đỗ. Lát nữa cầm quân phải biết khoan dung độ lượng, miễn là không ảnh hưởng toàn cục thì có thể nhún nhường đám Tông Đỗ Công Khôi chút đỉnh. Phải nhớ kỹ lấy câu khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. ”
Hồ Đỗ vỗ mạnh vào ngực mình, mặt mũi tràn ngập tự tin:
“ Tướng quốc ngài an tâm! Lý Thân thần công của Đỗ đã luyện tới tầng thứ tư, Lữ Bố Hạng Vũ ngày xưa chắc cũng chỉ đến thế mà thôi. Đừng nói là một, cho dù có mười Mộc Thạnh cũng không sợ. Chỉ cần chúng ta thắng trận này, thánh thượng sẽ không dám thất hứa dễ dàng đâu. ”
Hồ Xạ trợn mắt lườm Hồ Đỗ, có ý trách y không được kiêu căng, song tên cầm rìu chỉ gãi đầu cười hềnh hệch. Nguyên Trừng bèn nói:
“ Lý Thân thần công thực là uy dũng vô địch, song cũng không thể coi thường anh hùng thiên hạ. Chúng ta có Lý Thân, nhỡ đâu họ cũng có Lữ Bố thần công, Hạng Vũ thần công thì sao? Hơn nữa nơi này là chiến trường, không thể dựa vào sức một người để xoay vần toàn cục. Lữ Bố được tôn sùng như chiến thần cuối cùng vẫn phải rơi đầu, Hạng Vũ bá vương mạnh mấy cũng bị ép tới đường cùng phải tự tử.
Huống hồ vật đổi sao dời, nay ngoài chiến tuyến còn có sự hiện diện của hoả mai, đại pháo. Hồ Xạ, nhớ phải ngăn Hồ Đỗ lại, không được để hắn làm việc lỗ mãng như lần trước. ”
“ Tướng quốc an tâm, trước khi thằng Xạ này chết, tên Hồ Đồ này chắc chắn sẽ không biến thành chó điên để xổng con mồi lần nữa. ”
Hồ Xạ đập mạnh vào vai Hồ Đỗ, cười trêu. Đỗ thì bĩu môi, phản bác:
“ Được rồi, được rồi. Sơ sẩy một lần thôi mà. Tha cho ta đi được không, lần này nhất quyết sẽ không tái phạm. ”
“ Làm được mới nói nha. Mà đánh sao thì đánh, đập Mộc Thạnh đến tàn phế tứ chi cũng được. Nhưng nhớ để Trương Phụ lại. Lần trước ở Muộn Hải để hắn xổng mất, nay ta phải ném hắn thành cái sàng giải hận thay cho tướng quốc. ”
“ Con mẹ, Hồ Xạ nhà ngươi chớ có học đám quan văn buôn đằng sóng mà bán đằng gió chứ. Tham lập công thì nói toẹt ra đi. ”
Hồ Nguyên Trừng để mặc hai người trêu đùa nhau, không khí mới bớt phần khẩn trương căng thẳng. Trước khi hai người lãnh binh ra trận, chàng lại cố ý dặn Hồ Xạ ba câu.
Lạch nhỏ chớ tiến…
Doanh trống chớ vào…
Lâm nguy chớ loạn.
Cũng trong đêm đó…
Tạng Cẩu đang thiu thiu nằm trên cái xe kéo, mái tóc bù xù của nó chợt bị một bàn tay gân guốc vò lấy vò để. Biết ấy là Quận Gió đã tới, nó bèn choàng dậy:
“ Sư phụ, sáng rồi ư? ”
Hiện lên ở nơi xa là đôi mắt sáng ngời và cái trán dô của Quận. Ông tóm cổ áo Tạng Cẩu, nhấc bổng nó lên mà cười:
“ Cái thằng nhóc này, trong kia có giường mà cứ thích ngủ kiểu ăn mày là sao? Tính bị ốm để lười biếng có phải không? ”
Tạng Cẩu cười hì hì, chợt nó phát hiện người Quận Gió thoang thoảng một mùi thơm nhè nhẹ, khác hẳn với thường ngày. Nhưng, nó biết vị sư phụ thần thần bí bí này không thích nó tọc mạch vào chuyện của lão nên cũng không dám hỏi thêm.
“ Gọi hai đứa kia dậy đi, hôm nay tên trộm già cao hứng nên muốn dạy cho mấy đứa thêm vài thứ. ”
Quận cười, rồi thả Tạng Cẩu xuống. Bàn tay trái giấu kín sau tấm áo tơi của ông khẽ run lên, nơi đầu ngón tay máu khẽ rỉ ra đỏ ối. Sắc mặt ông cũng tái hơn bình thường nhiều. Lần đầu tiên kể từ khi hai thầy trò nhận nhau, Tạng Cẩu nghe được tiếng hô hấp của Quận.
Những cao thủ như Quận Gió, thường hơi thở rất đều, chậm và khẽ. Ấy là do nội công của ông đã đến cảnh giới cao sâu khôn lường, lô hoả thuần thanh. Gần như đã thay thế hẳn ngoại hô hấp rồi. Người đứng bên cạnh khó mà nghe thấy nổi. Nay ông đã thở gấp gáp đến độ Tạng Cẩu có thể nghe thấy, chứng tỏ nội lực đã có phần hao tổn.
Tạng Cẩu không nói gì, chỉ đi lay Liễu Thăng với Phiêu Hương dậy. Hai đứa nghe được Quận Gió đã tới, vui như mở cờ trong bụng. Được một tông sư, một trong thất tinh bắc đẩu của võ lâm nước Nam dạy dỗ thực là một kì ngộ khó gặp. Cẩu lại nhắc:
“ Hôm nay sư phụ không được khoẻ lắm, chúng ta đừng hỏi nhiều quá, để người nghỉ ngơi cho lại sức. ”
Ba đứa lục tục gật đầu, đoạn vén liếp lên. Ngoài cửa đã chờ sẵn một người lính. Y chính đang kì tráng niên, hình dáng dữ tợn mà đô con quắc thước.
Tên lính quắc mắt ưng lên nhìn cả ba một lúc, rồi nói:
“ Ba thằng nít ranh, đi theo ta mau lên. Tên trộm này không rỗi việc được cả đêm đâu. ”
Câu đầu ngữ khí nghe thật xa lạ, ngân nga khác nào tiếng chuông cổ mà lại ồm ồm như tiếng cóc kêu. Còn câu sau thì đúng là giọng của Quận Gió.
Ba đứa nhìn thân hình lực lưỡng kia, nghe giọng nói mạnh bạo ấy mà kinh ngạc. Chúng không tài nào liên tưởng nổi hình ảnh bệ ngạn này với tay trộm già lưng còng, giọng êm mà rõ thường ngày vẫn hay dạy chúng võ công.
Bốn người dắt nhau đến dưới gốc một cây, cách doanh trại chỉ mấy chục bước.
Quận Gió để bọn nhỏ ngồi xuống trước cây lớn, bản thân ông thì lách mình vòng qua sau thân gỗ. Mượn cỏ cây và bóng tối che khuất, từng tiếng “ loạt xoạt ”, “ loạt xoạt ” vang lên.
Thế rồi, nhoáng một cái, một người đàn bà bước ra từ nơi Quận vừa biến mất. Trông bà chừng ba lăm - bốn mươi tuổi, ăn bận theo kiểu quý tộc. Tà áo dài màu lam đậm trượt trên mặt cỏ, một dải lụa được thắt ngang ngực để giữ áo sống cho thẳng thớm. Tay ông cầm một thanh đao ngắn, ấy chính là thanh đao mà Phiêu Hương nhờ giữ hộ.
Bọn nhỏ rùng hết cả mình lên, đặc biệt là khi người phụ nữ ấy cất lên tiếng nói the thé, rợn người:
“ Theo mấy đứa đứa nghĩ kẻ mạnh là như thế nào? Thế nào mới được gọi là kẻ mạnh? ”
Ba đứa nhỏ nhìn nhau, không giấu nổi vẻ nghi hoặc trên gương mặt. Quận Gió hỏi chúng câu này là có ý gì đây? Trong đêm, dưới tán cây, Quận Gió - vẫn đang cải trang thành một người đàn bà quý tộc - tủm tỉm cười nhìn bọn nó. Xem ra ông chẳng có vẻ gì định bật mí mục đích của mình cả.
Liễu Thăng biết ông đã không muốn nói thì có gặng hỏi cũng vô ích. Thế là cậu dẫn đầu, lên tiếng ngay:
“ Kẻ mạnh chính là thiên hạ vô địch, cường giả chưởng khống lực lượng tuyệt đối. Bát hoang lục hợp, duy ngã độc tôn! Vô câu vô thúc, khoái ý ân cừu. ”
Quận nghe Liễu Thăng trình bày, chỉ cười khẽ một tiếng rồi không nói gì nữa.
Phiêu Hương nghĩ một chút, rồi thưa:
“ Hữu dũng vô mưu, sao là kẻ mạnh được? Năm đó quân Nguyên Mông hung tàn là thế, mạnh mẽ là vậy, nhưng sang Đại Việt vẫn phải ba lần ngã ngựa. Dù nhà Trần cũng phải trả giá đắt, nhưng dễ thấy dùng trí tuệ có thể bốn lạng đẩy ngàn cân. Trong lịch sử, điều này không hề hiếm. ”
Quận Gió khẽ gật gù, nhưng vẫn không nói một chữ, tiếp tục im lặng. Ông nhìn sang Tạng Cẩu, gặp nó đang bần thần nhìn xuống đất.
Một lúc khá lâu sau, Tạng Cẩu mới nói:
“ Con là đứa ít học, không biết nói sao. Nhưng ai có sức mà tàn ác thì như loài chằn tinh, kẻ có trí mà bụng lươn dạ rắn thì chẳng khác nào Lí Thông. Cho nên, kẻ mạnh là kẻ nhân hậu? ”
Ba đứa nhóc, ba ý kiến khác hẳn nhau về khái niệm “ kẻ mạnh ”, một từ tưởng như đơn giản ấy, lại có mấy người hiểu được cặn kẽ?
Quận Gió vỗ đầu ba đứa, rồi từ tốn:
“ Ba đứa đều có cái lí của mình, nhưng thực ra lại chỉ hiểu được một phương diện của hai chữ “ kẻ mạnh ” mà không thấu được toàn bộ.
Liễu Thăng nói kẻ mạnh phải có sức mạnh, là chữ dũng. Phiêu Hương cãi kẻ mạnh cần có đầu óc, chính là chữ trí. Còn Tạng Cẩu bảo kẻ mạnh không thể thiếu một con tim lớn, thì ấy là nhân. Phàm là người sống ở đời, bất nhân thì thành đảng ác, bất trí thì là phường ngu si, còn như vô dũng thì đa phần trở thành kẻ nói phét. Nhân hậu mà ngu dốt bất tài, ta gọi ấy là kẻ vô dụng. Thông minh song vô dũng bất nhân, sớm sớm đứng trên triều vào chầu thánh thượng đâu có thiếu hạng người này? Còn dũng mãnh mà lại như Lữ Bố thì cuối cùng cũng chỉ chuốc lấy diệt vong, chết rồi còn bị người đời sau phỉ báng muôn ngàn kiếp.
Kẻ mạnh thực sự, là mạnh về cả thể chất, trí óc và con tim. Trái tim là mục đích, cái đầu là phương pháp còn đôi tay là quá trình. Thiếu một cái, đều xôi hỏng bỏng không. ”
Ba đứa nhỏ nhìn nhau… thật lâu không nói tiếng nào… Những lời Quận Gió nói hôm nay thực có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới quan sau này của chúng.
Đặc biệt là Tử Tiêm. Cách mà Liễu Thăng nhìn vị tông sư nước Nam nay đã thay đổi hoàn toàn. Cậu đã tâm phục khẩu phục. Không chỉ là tài võ, mà khâm phục cả nhân cách con người của ông.
Liễu Thăng bất giác xấu hổ, thầm chửi bản thân mình hãy còn nhỏ nhen và ấu trĩ quá. Ngoại trừ kẻ ngu ngốc ra, ai dám nói mình mạnh nhất thiên hạ, ai dám nói mình nắm giữ lực lượng tuyệt đối? Nhân vô thập toàn, cường giả mà ai cũng nghĩ như cậu, không hợp mắt là thẳng tay chém giết thì e là thế gian chẳng còn mấy người.
Dân Trung Quốc thực ra cũng có một câu “ đại nhân hữu đại lượng ”, tiếc là không mấy ai hiểu được.
Liễu Thăng đột nhiên quỳ xuống, vái Quận Gió một vái.
“ Nhất nhật vi sư, trung thân vi phụ, tiền bối thực khiến Tử Tiêm mở mang tầm mắt, xin nhận của Liễu Thăng một lạy, ”
Quận Gió khẽ cười, đáp:
“ Ấy chỉ là cách tên trộm này cắt nghĩa hai từ “ kẻ mạnh ” mà thôi. Không hẳn là chính xác, cũng chưa chắc đã hợp với mấy đứa, thế nên cũng đừng gượng ép thu làm của mình. Muốn tự mình lí giải hai từ “ kẻ mạnh ” này, hãy sống… rồi tìm ra câu trả lời cho chính bản thân. Đó, cũng là bài học vỡ lòng mà hôm nay ta muốn dạy cho ba đứa học trò của mình. ”
Tạng Cẩu nghe thế, bèn mừng rỡ vỗ vai Phiêu Hương, Liễu Thăng:
“ Hay quá, sau này chúng ta chung một thầy. Là… cái gì đồng… cái gì sư ấy! ”
“ Là đồng môn sư huynh ( tỷ) đệ. ”
Sau phút bất ngờ ban đầu, hai người bọn Tử Tiêm cùng phì cười mà kí vào đầu Tạng Cẩu. Thằng nhóc đau tới độ nhe răng nhếch miệng, phải vừa la oai oái vừa ôm đầu bỏ trốn.
Phiêu Hương thi triển bộ pháp kì quái, bám riết lấy nó. Liễu Thăng chậm rãi bám theo sau, hươ gậy mà đánh. Đáng thương cho Tạng Cẩu, dù học được bản lĩnh khinh công của Quận, song hoả hầu quá yếu nên vẫn bị đánh cho cuống quýt tay chân.
“ Thằng ngố này!!! Tham thì thâm đây mà… ”
Quận Gió nhướng mày, thấy càng lúc bộ pháp của Cẩu càng loạn xà ngầu thì vừa bực mình lại vừa mừng rỡ. Vui do chọn đúng tên đệ tử chẳng những nhân phẩm tốt đẹp, mà còn là một kì tài luyện võ ngàn năm mới gặp một người. Mặc dù Cẩu mới học Lăng Không Đạp Vân không được mấy ngày nhưng đã nắm được bản chất, chỉ còn thiếu hoả hầu tu luyện. Mà ông lại tức vì nó không hiểu được tính chuyên nhất, tham lam quá độ.
Lăng Không Đạp Vân so với Tuyết Trai kiếm pháp và Nhạc gia thương pháp (*) cao thâm hơn quá nhiều. Thằng nhóc này muốn dung hoà tinh tuý của hai bộ võ công sau vào cái trước, song cuối cùng lại biến khéo thành vụng. Chẳng những không đạt được chút hiệu quả gì, lại còn tự ngáng chân mình. Nước trong đến mấy pha vào rượu vẫn cứ làm loãng, ấy cũng là cái ngu của thiên tài vậy.
Cười khổ, lão vội vàng cởi đồ hoá trang xuống, nháy mắt lại khôi phục dáng vẻ của một tên trộm già gầy nhỏ, với tấm áo tơi quàng vai, nói tre đội đầu.
Tạng Cẩu bị hai người kia trêu ghẹo, đánh một chầu không phản kháng nổi. Tất nhiên đây chỉ là chuyện trẻ con đùa nhau thôi nên nó không bị sao hết, nhưng cũng khá là ấm ức. Bên cạnh đó, trong quá trình này Quận Gió đã nhìn ra được điểm thiếu sót trong võ công của không chỉ mình Cẩu, mà của cả ba đứa.
Quận Gió lấy trong áo ra một viên Quỷ Diện Phi Châu, co ngón tay vận kình bắn thẳng lên tán cây trên đầu. Tiếng gào ma quỷ đánh động bầy chim sẻ đang gà gật ngủ giữa những cành xà cừ, khiến chúng hoảng hồn choàng dậy. Phành phạch… Tiếng vỗ cánh truyền đến miên man như sóng biển, bầy chim tung mình biến mất vào đêm thâu.
Sau đó, rất nhẹ, một vài nhánh cây bị Phi Châu đụng gãy bắt đầu rơi xuống sau lưng ông. Lớn có, nhỏ có, dài ngắn thẳng cong đều không thiếu. Thế rồi phịch một cái, Quỷ Diện Phi Châu rơi ngược trở xuống nền đất, hằn lên một vết sâu chừng nửa đốt ngón tay.
Quận Gió phủi áo đứng dậy, lần mò đống cành cây rồi nhặt hai thanh thẳng nhất, chiều dài vừa bằng một cánh tay. Ông huýt gió một cái, ba đứa nhóc tì mới ngừng trò đuổi bắt nhau lại.
“ Cẩu, sư phụ gọi kìa. ” - Phiêu Hương huých vào đầu vai Tạng Cẩu, khiến nó loạng choạng ngã phịch một cái xuống bãi cỏ. Cô bé trông cái dáng lum cum bò dậy của Cẩu mà cười khúc khích, nói.
(*): ở đây kể chuyện Triệu vương thay Liêm Pha, thế Triệu Quát vào mà binh bại. Cụ thể năm 278 TCN, Liêm Pha làm tướng đem quân về đánh Tề, phá một đạo quân Tề. Năm 276 TCN, Liêm Pha lại đánh thành Kỳ của Tề, lấy được thành. Năm 273 TCN, Liêm Pha lại mang quân đánh đất Phòng Lăng, An Dương của Ngụy, đều lấy được.
Năm 270 TCN, Triệu Huệ Văn Vương chết, con là Hiếu Thành Vương lên ngôi. Năm 263 TCN, Tần Chiêu Tương vương sai Vương Hột mang đại quân đánh Triệu vì Triệu thu nhận đất Thượng Đảng của nước Hàn mà Tần đang vây đánh[1].
Bấy giờ một tướng giỏi khác là Triệu Xa đã chết, Lạn Tương Như lại mắc bệnh nặng, vua Triệu sai Liêm Pha cầm quân đánh Tần.
Liêm Pha ra trận đụng độ với Vương Hột, quân Tần mạnh mẽ mấy lần đánh bại quân Triệu. Liêm Pha biết thế quân Triệu yếu hơn nên cố thủ giữ thành không đánh. Quân Tần mấy lần khiêu chiến, Liêm Pha vẫn không chịu đánh. Vua Tần Chiêu Tương Vương bèn dùng kế phản gián, phao tin rằng:
Tần chỉ sợ một mình Triệu Quát, con Mã Phục quân Triệu Xa mà thôi
Triệu Hiếu Thành vương nghe thế, nghĩ rằng ông nhút nhát không chịu đối trận với quân Tần và Triệu Quát tài hơn ông, nên định cho Quát ra thay ông. Lạn Tương Như can:
Nhà vua dùng Quát cũng chỉ vì nghe danh ông ta cũng như gắn trục đàn mà gảy đàn thôi. Quát chỉ biết đọc sách của cha để lại, không biết ứng biến đâu.
Mẹ Triệu Quát cũng đưa thư nói rằng Quát không thể nối được cha nhưng vua Triệu không nghe, cho Quát làm tướng, ra mặt trận thay Liêm Pha. Kết quả tới năm 260 TCN, Triệu Quát bị tướng Tần là Bạch Khởi đánh đại bại ở Trường Bình. Quát tử trận, hơn 40 vạn quân Triệu bị chôn sống.
Thừa thắng, năm 259 TCN, quân Tần vây kinh đô Hàm Đan của nước Triệu hơn một năm, nước Triệu nguy cấp vì tổn hại lớn về nhân sự. Nhờ có các nước Sở, Ngụy đến cứu nên mới giải được vây ở Hàm Đan (258 TCN)
(*) Nhạc gia thương lưu truyền giang hồ nhiều năm, đã nảy sinh ra nhiều biến thể, tạp mà không còn tinh nữa nên mới nói thua xa thần công của Quận Gió. Dầu sao Lăng Không Đạp Vân cũng là thứ hư cấu, không dám tuỳ tiện so sánh với võ học có thực để tránh tội bêu xấu tiền nhân.