[Việt Nam] Sừng Rượu Thề

Chương 10 : 10




Dòng sông Như Nguyệt mấy hôm nay mất vẻ êm đềm thơ mộng vốn có của nó từ ngàn đời, với dòng nước thanh bình êm ả, với bãi mía nương dâu xanh biếc, với bóng núi uy nghiêm in trên mặt sông mờ mờ sương khói huyền ảo… Mấy hôm nay dòng sông sáng lấp lóa ánh thép lạnh của gươm đao. Các đạo quân từ mọi miền kéo về đây hội sư. Dưới sông san sát thuyền chiến. Trên bờ tiếng ngựa hý vang động, các lều trại đóng quân dựng lên san sát.

Nhà cầu quán bên sông lại một lần nữa được dùng làm nơi đóng hành doanh của Tiết chế Lý Thường Kiệt. Phò mã Thân Cảnh Phúc luôn cắp gươm đứng hầu ngay bên tả tướng hổ. Cả công chúa Thiên Thành cũng theo chồng về đây cùng chín kiệu lồng chim mà vua ban từ buổi cất bước đi lấy chồng. Công chúa đã sinh hạ được đứa con trai đầu lòng. Đứa bé mới đầy tuổi tôi mà đã được nhà vua phong tước hầu. Bây giờ cậu hầu tước vẫn còn nằm ngủ thiu thiu trên lưng mẹ. Thật khó mà còn có thể nhận ra nàng công chúa năm xưa trong cái chức vụ khó khăn truân chuyên của bà chúa trại khê động hôm nay. Nhập gia tùy tục. Tục lệ của người động Giáp là quý con cái hơn quý tính mạng mình. Vì thế người mẹ ở vùng động này dù là mẹ thứ dân hay mẹ bậc vương giả đều có thói quen địu con lên lưng bằng cái địu tự mình dệt vải từ sợi gai, tự mình nhuộm hoa, tự mình thêu màu hình hoa rừng chim thú. Không tự tay làm là không thương con. Không tự nuôi con cũng là không thương con. Bởi lẽ ấy mà nàng công chúa Thiên Thành năm xưa đã thành bà áp trại, làm dâu họ Thân, đi theo chồng đến hội quân tuy có quân quyền phục dịch, nàng hầu đầy tớ đầy đủ nhưng vẫn địu đứa con trai yêu dấu trên lưng…

Cũng như tất cả các vợ con tù trưởng và dân khê động, nàng công chúa tập sống quen với nếp sống luôn luôn theo chồng mỗi khi cất quân đánh dẹp ở bất cứ nơi đâu. Dân các khê động vốn còn giữ thói quen của những bộ lạc du mục mặc dù đã bắt đầu định cư một phần nào. Vì lẽ đó mà khi cần cất quân đi chiến đấu là họ đưa cả gia đình vợ con đi theo. Ngay cả người mới chết chưa làm xong lễ an táng, họ cũng quàn lại và đưa theo trong quân. Vì thế khi hội sư ở dòng Như Nguyệt này nàng công chúa Thiên Thành năm xưa đã đi sát bên phò mã. Nàng ở ngay chiếc lều áp trại dựng đằng sau cái cầu quán dùng làm hành doanh của quan Tiết Chế.

Lý Thường Kiệt gọi công chúa đến và dạy rằng:

- Đàn chim của công chúa đã thuộc hết núi rừng biên tái rộng lớn này chưa?

- Thưa tướng công, không nơi nào cánh chim này không đã từng bay đến… Mỗi con thuộc đường đến một khê động…

Lý Thường Kiệt gật đầu bằng lòng, rồi sai gọi tất cả đám nho sĩ trẻ tuổi mà ông mới gọi theo quân. Tiết chế tướng quân đại tư đồ sung những người viết chữ đẹp vào trong quân giữ chức nho lại hiệu úy. Ông sai tất cả viết hàng trăm bức thư truyền lệnh hội các thủ lĩnh của tất cả các khê, các động dọc biên thùy về bản doanh Như Nguyệt. Hàng trăm cánh chim đưa thư bay xuyên qua mây núi. Những thủ lĩnh các nơi cùng với đoàn vệ sĩ tùy tòng lục tục nối tiếp nhau về mỗi lúc một đông.

Từ Thăng Long, Thái phi nhiếp chính Ỷ Lan đã xin vua xuống chiếu huy động sương quân ở khắp các làng chạ tứ chiếng và châu Hoan – Diễn. Quân ùn ùn kéo lên vùng lăng miếu của vua các triều Lý phía nam ngạn sông Nguyệt Đức và sông Như Nguyệt. Chỉ của vua sai các quan lộ, châu huy động thuyền chiến và thuyền buồm của dân vẫn thường dùng để đánh cá, để chở gạo muối dùng tạm vào việc chở quân. Vì thế quân trẩy lên đông đặc khắp các con sông quanh vùng đất thang mộc… Khi các chư tướng đã hội đủ, Tiết chế tướng quân Lý Thường Kiệt dẫn tất cả các tướng vào lễ lăng miếu của các tiên đế nhà Lý, rồi tuyên đọc hội thề, ra lệnh phát binh. Các tù trưởng lớn và hùng mạnh được trao ấn tiên phong. Phía sau các đạo quân tập trung là đạo quân lớn của phò mã Thân Cảnh Phúc thống lĩnh toàn lực lượng quân kinh và quân động đóng suốt dọc Lạng Châu…

Tiết chế Lý Thường Kiệt sai điểm binh và cử tướng cùng cắt những thớt voi trận của triều đình đến làm chủ lực cho đạo binh của các động đặt dưới quyền chỉ huy của các tù trưởng. Cùng với voi trận và quân tinh nhuệ Lý Thường Kiệt còn cử các viên nho lại hiệu úy theo từng cánh quân để tiện việc thông tin bằng cách gửi chiến thư theo chim về động Kép. Và từ động Kép tâu trình về bản doanh Như Nguyệt và Thăng Long.

Hội thề trước cửa Thái miếu dứt. Lý Thường Kiệt đứng trước hàng chục các thủ lĩnh biên thùy và các tướng triều được cử cầm quân có voi chiến, máy bắn đá đi kèm phối hợp với quan thổ đinh khê động mà truyền rằng:

- Nhà Lý chúng ta từ khi dựng nghiệp, bao giờ nhà vua cũng thân chinh cầm quân chinh phạt giữ yên bờ cõi… Nay vua ta còn nhỏ tuổi, việc chinh phạt giao quyền cho các tướng. Ta giao cờ tiết cho các tướng quân. Hẹn trong một tuần trăng nữa, tất cả các thủ lĩnh đều một lượt dẫn quân tràn sang đất Tống. Phá các trại dọc biên thùy, đốt cháy các kho cỏ, cướp các kho lương thực, tước các võ khí… Người Tống đang tụ binh, tụ lương thảo định đánh ta, nay ta phát binh, phải đánh vào tất cả các kho lương thảo từ đây đến thành Ung Châu, kho lương thảo lớn nhất, nơi tụ binh đông nhất của quân nhà Tống. Có quân triều đình đi cùng, các người phải gương cao cờ Đại Việt mà tiến, làm sao cho quân Tống tưởng rằng đại quân của ta sẽ đánh bằng đường bộ tới Ung Châu… Quyền điều động ở đây ta giao hổ phù cho phó tướng thân vương phò mã Thân Cảnh Phúc… Trước lăng miếu tôn nghiêm của tổ tiên nhà Lý ta, các người có thề chết phá giặc hay không?

Tất cả các tướng lĩnh tù trưởng đều gầm lên hai tiếng: “Xin thề… xin thề…” vang động.

Hội thề vừa dứt, Lý Thường Kiệt mở tiệc khao các tù trưởng và quân sĩ ngay trong rừng Báng, rồi tiễn từng thủ lĩnh một lên đường ra ngoài biên ải. Chỉ lưu lại vợ chồng phò mã Thân Cảnh Phúc để bàn tiếp việc điều binh sau này.

Mũi nhọn tiến công đầu tiên do thủ lĩnh Vi Thủ An dẫn sáu trăm thổ binh động Tô Mậu cùng với một đội voi chiến Châu Hoan gồm một trăm lính đánh câu liêm và mười voi, vượt biên thùy đánh thẳng vào trại Cổ Vạn. Có voi chiến mở đường các thổ binh của thủ lĩnh Vi Thủ An đánh như vũ bão. Đô bảo giáp Cổ Vạn không thể nào chống cự nối đã bỏ thành chạy trốn để lại hàng chục kho chứa hàng ngàn thạch thóc. Vi Thủ An cho người già và đàn bà theo quân dùng ngựa cướp được thồ chở về động mình. Hàng trăm đống cỏ trong các kho cỏ thì theo như lệnh, thủ lĩnh Vi Thủ An nổi lửa đốt; ngọn lửa châm ngòi từ những kho cỏ lớn ở động trại Cổ Vạn bốc ngút trời cao… Biết chắc bên cánh tả của mình đã có quân yểm trợ để mình vào sâu trong đất địch là không bị bọc hậu cô lập, thủ lĩnh Vi Thủ An gương cờ Đại Việt thừa thắng đánh thẳng về hướng thành Ung Châu… Từ biên thùy đến thành Ung Châu xa chừng gần hai trăm dặm. Mũi gươm nhọn của đạo quân Vi Thủ An có voi chiến mở đường tiến như vũ bão. Đi đến đâu các kho đụn tích tụ từ lâu của giặc đều bị đốt phá cháy rừng rực…

Ngọn lửa bùng lên ở trại Cổ Vạn như một hiệu lệnh phát binh.

Chỉ trong vòng hạ tuần tháng chín (1075), toàn bộ biên thùy Hoa Hạ rung động, và ngùn ngụt lửa chiến tranh… Các tướng của Tống vốn là các tù trưởng các động vùng biên tái không thể nào chống cự được những cuộc tấn công vũ bão có tổ chức của quân đội triều đình nhà Lý có lực lượng thổ binh các khê động làm nòng cốt. Chúa trại Hoành Sơn là Lâm Mậu Thăng, viên quản bạt Vĩnh Bình là Tô Tá, viên quản bạt Thái Bình là Ngũ Cử, viên giám áp trại Thái Bình là Quách Vĩnh đều bị giết tại trận…

Lúc này viên kinh lược Lưu Di còn chưa tin là quân nhà Lý dám đánh vào Trung Nguyên, hắn còn điên cuồng lo tích tụ lương thảo vũ khí. Hắn viết tấu về triều xin mở quốc khố xuất bốn vạn quan tiền để mua thêm lương thảo tích trữ ở Ung Châu và các động dọc đường nam chinh…

Những cánh chim đưa thư bay tới tấp về báo tin thắng trận. Nhưng đạo quân thủy rất lớn của Tiết chế Lý Thường Kiệt, vẫn đóng dài suốt từ sông Như Nguyệt ra đến bến Lục Đầu chưa nhổ neo. Phò mã Thân Cảnh Phúc nóng ruột từ động Kép phi ngựa về Như Nguyệt xin yết kiến Tiết chế. Lý Thường Kiệt chỉ cười:

- Phò mã cầm quân, nhất là cầm đại quân, sao lại cứ nôn nóng vậy… Bây giờ phò mã hãy trở về ngay động Kép điểm lại binh mã, và ta cử thêm cho phò mã một ngàn bộ binh đánh khiên, một ngàn bộ binh đánh câu liêm đi kèm với năm mươi thớt voi trân. Phò mã chỉ được điều binh tiến lên vùng biên thùy chứ không được tham chiến.

- Thưa Tiết chế, sao đạo quân lớn của tôi lại không được tung ngay vào trận chiến đánh thẳng đến Ung Châu?

Lý Thường Kiệt cười:

- Thường ngày phò mã có đi săn lợn lòi không?

Phò mã Thân Cảnh Phúc ngạc nhiên:

- Sao Tiết chế lại hỏi tôi điều đó… Săn bắn là nghề của dân tộc chúng tôi mà..

- Thế lợn lòi khi bị thương thì điều nguy hiểm nhất cho người đi săn là gì nào…

- Điều này thì tôi biết rất rõ. Khi bị thương, lợn lòi thường quay đầu về phía người đi săn và phóng như một tia chớp khủng khiếp… Nếu người đi săn thiếu đề phòng là thiệt mạng như bỡn.

- Thế người động Kép đề phòng lợn lòi húc bằng cách nào.

- Thường chúng tôi nấp sau một gốc cây cổ thụ lớn để khi lợn lòi lao đầu phóng như điên thì húc đúng vào cây lớn mà vỡ óc chết. Sức lợn lòi bị thương sặc tiết có thể húc đổ cả cây lim một vòng tay người ôm…

Lúc ấy Lý Thường Kiệt mới cười mà giảng giải rằng:

- Khi ta phát binh đánh vào biên thùy, thì quân Tống đóng ở Hoa Hạ là gần mười vạn binh, kể cả chính binh và binh bảo giáp. Đó là một con lợn lòi điên cuồng nhất. Ta đánh vào các trại dọc biên thùy chính là làm cho nó bị thương… Nếu cả mười vạn quân nó đúng là lợn lòi, và nếu nó tin chắc là ta đánh thẳng vào Ung Châu bằng đường bộ vượt qua biên giới, thì nó sẽ tụ binh mà đánh thốc xuống đối mặt với ta… Ta phải có một cây lim cổ thụ để con lợn lòi điên cuồng kia húc vào mà vỡ tan sọ… Đạo quân của phò mã phải làm cái cây cổ thụ ấy… Còn nếu, quân Tống bị tê liệt thì phò mã có thể tùy nghi tiến dần cử binh đánh sâu vào đất Tống… Điều cốt yếu là phải làm sao cho quân Tống chỉ nhìn về phía đại quân của phò mã mà thôi…

Phò mã Thân Cảnh Phúc lúc đó mới vỡ lẽ và hiểu được mưu cao của viên Tiết chế thống lĩnh ba quân vóc người uy nghi kỳ vĩ nhưng ăn nói lại nhỏ nhẹ như đàn bà này. Chàng trai động Kép vòng tay chào vị Tiết chế của mình:

- Tôi xin mang đại binh lên biên thùy hư trương thanh thế để quân Tống tưởng như chính Tiết chế dẫn toàn bộ quân vượt biên tái. Xin chúc Tiết chế xuôi buồm từ sông Như Nguyệt này qua sông Lục Đầu đến biển. Men dọc Đồng Kênh… Chúng tôi chờ tin hạ thành Khâm Châu và Liêm Châu của tướng quân Tiết chế…

Vợ chồng Thân Cảnh Phúc tiến quân lên biên thùy và gương cờ Đại Việt. Toàn miền Hoa Hạ rung động thực sự vì tin đại quân đã lên đường. Trước đây việc các khê động hai bên biên giới giao tranh nhau như vụ Nùng Tông Đản, Lưu Kỷ đánh nhau với Nùng Trí Hội về chuyện mở đường buôn ngựa vẫn thường xảy ra, như độ tháng tư vừa rồi. Vì thế việc thủ lĩnh Vi Thủ An tiến vào Cổ vạn chưa gây cho Lưu Di một sự hoảng hốt thực sự… Hơn nữa đường giao thông bấy giờ chưa thuận tiện, các dịch trạm từ Biện Kinh xuống phía nam chưa được hoàn bị. Trại Cổ vạn mất vào rằm tháng chín âm lịch (tức 27 tháng 10 năm 1075), nhưng mãi sáu ngày sau tin đó mới đến tại Lưu Di ở thủ phủ Quế Châu. Và phải đến ngày 28 tháng 10 thì tin dữ mới phi báo về đến kinh đô. Tin này làm cho quần thần không tin nên Vương An Thạch hạ lệnh kiểm chứng lại, khi mọi chuyện đã rõ ràng thì đến mãi ngày 11 tháng 11 năm ấy (tức vào ngày 21 tháng 12 năm 1075) mới tâu lên vua Tống để xin chiếu chỉ khu xử công việc nam thùy, cùng với tin thêm là vùng Quảng Nguyên có nhiều thổ binh được vua Lý xúi giục chuẩn bị vào cướp phá. Như thế là tin từ biên thùy đến Biện Kinh nhà Tống nhanh nhất cũng phải mất một tháng rưỡi nên các biến cố dồn dập và lửa khói ngút trời suốt dọc miền Hoa hạ mà chính Vương An Thạch và vua Tống Thần Tông vẫn tưởng như chỉ là những cuộc xô xát tranh cướp nhỏ giữa các thủ lĩnh khê động ở hai bên biên thùy. Chiếu chỉ đầu tiên cho Lưu Di sai các tuần kiểm đề phòng cho nghiêm, không được khinh chiến. Lệnh chưa xuống đến nơi thì hầu hết các quan tuần kiểm các động dọc biên thùy Hoa Hạ hoặc đã bị quân Lý chém chết, hoặc đã cắm đầu chạy dài về đến tận Biện Kinh. Chẳng còn ai thực hiện cái việc mà Vương An Thạch căn dặn phải kê tên những người có quân công đánh dẹp và những người có công giúp đỡ những người có nhà cửa bị giặc ngoại biên cướp phá, đốt cháy, để triều đình định lệ ban thưởng.

Đến lúc tin tức dồn dập vì hàng chục khê động man trại bị đánh phá dồn đến kinh đô thì quan Khâm Thiên giám hốt hoảng báo tin cuất hiện một chòm sao chổi vào đêm mồng bảy rạng ngày mồng tám tháng mười năm Ất Mão. Ngày mồng chín vua Tống Thần Tông hoảng sợ lên đài theo dõi trời, đất. Quan Khâm Thiên giám, cầm thước vàng nheo mắt giương thẳng tay lên trời để đo, và run run tâu rằng:

- Muôn tâu hoàng thượng, điềm này là điềm dữ rồi. Đêm qua sao chổi mới xuất hiện, đuôi dài chưa được một thước. Hôm nay đuôi đã dài đến ba thước… Mà rõ ràng là đuôi sao trở về phương chòm sao Thái Bạch. Ứng chiếu điềm trời với động dưới đất theo các sách từ xưa để lại thì sao chổi hiện là điềm báo trước có nạn binh đao. Chòm sao Thái Bạch là ứng với đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vì lẽ đó, chắc rằng có việc dữ xảy ra từ đất Giao Chỉ này… Xin bệ hạ đề phòng…

Và cứ thế mỗi đêm tin dữ trên trời lại thêm khủng khiếp. Tòa Khâm Thiên giám liên tiếp tâu lên nhà vua Tống Thần Tông biết là đêm mồng chín đuôi sao chổi đã dài năm thước. Sang đêm mồng mười sao chổi đã dài bảy thước… Vua Tống Thần Tông vốn có óc mê tín nghe tin phương nam biến động biên thùy bèn gắn với điềm sao chổi hiện, nên hoang mang vô cùng… Vương An Thạch là một nho sĩ trẻ thuộc phái mới, giàu óc thực tế, bài xích dị đoan. Nghiêm giọng đe nẹt các quan trong triều:

- Ta đang tụ binh để tiến xuống trừng phạt Giao Chỉ… Biến động nam thùy là như thế… nếu điềm sao chổi hiện là đúng, cũng là ứng với ý muốn của hoàng đế của ta mà thôi… Ta sẽ mang việc đao binh đến tận hang ổ của quận vương Giao Chỉ, để tỏ uy đức của triều Đại Tống chúng ta. Các quan không một ai được làm rối lòng vua.

Vương An Thạch còn lệnh cho quan Khâm thiên giám không được làm náo động dân tình và nhà vua bằng cách giơ thước lên trời mà đo đuôi sao chổi nữa. Sao chổi dài hay ngắn thì ghi vào sổ sách mà thôi, không được cứ ngày ngày tâu lên hoàng thượng. Ngài còn bận trù liệu việc đánh phương nam.

Vì triều đình quá mải mê việc tụ lương tụ quân cho cuộc nam tiến hùng hổ nên không tin rằng triều Lý cả gan đánh vào đất mình. Đánh vào lúc miền nam thùy đầy chặt quân sĩ và chất đống binh lương.

Lúc đó, Tiết chế Lý Thường Kiệt đã hội đạo thuyền chiến chở hai vạn binh tinh nhuệ ở bờ biển châu Vĩnh An. Giữ bí mật đến cùng, đêm ngày mậu dần 20 tháng 11 năm Ất Mão, lúc trăng hạ huyền chưa lên cùng nước thủy triều, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho hạm đội ào ạt đổ bộ lên bờ biển Khâm Châu, ngay lập tức công kích như vũ bão vào thành này. Thành Khâm Châu bị đánh bất ngờ, nên mấy ngàn quân đóng trong thành không kịp trở giáo chống cự. Quan Thừa chỉ coi Khâm Châu Trần Vĩnh thái là một viên quan lại bản tính kiêu ngạo, khinh miệt các dân tộc nào không phải là dân tộc Hán. Vĩnh Thái coi dân Đại việt như đám dân man động mọi rợ ngu dốt. Vì nhẽ ấy, khi quân Đại Việt tràn qua biên giới, thì Trần Vĩnh Thái vô cùng bực tức. Y lập tức đòi gởi bớt quân của thành Khâm Châu tiến ra tiễu trừ cái đám giặc có man động láo xược. Vĩnh Thái không thể nào tin được rằng đám dân Đại Việt mọi rợ kia dám bén mảng đến thành lũy kiên cố của mình. Đám thám tử mấy hôm trước đã nói hở cho nhau nghe cái tin quân Đại Việt có thể từ đường biển tràn sang đánh phá thành Khâm Châu. Lập tức quan Thừa chỉ mắng rằng:

- Bọn chúng bay là bọn nhát gan, chỉ thấy hơi gió thổi là đã tưởng gặp cơn bão lớn, thần hồn nát thần tính. Quân Đại Việt nào dám bén mảng đến đây. Chẳng qua cái đám dân man động quen cái thói ăn cướp tràn vào cướp phá mấy trại biên. Lại may, gặp toàn những tên tuần kiểm bất tài nên thắng mấy trận nhỏ. Chẳng phải tay ta cầm quân… Nếu ta cầm quân thì chỉ một trận thôi đám giặc cỏ ấy phải tan như đàn kiến vỡ tổ.

Mắng rồi, Thừa chỉ Trần Vĩnh Thái ra lệnh cấm đám thám tử không được bép xép chuyện quân Đại Việt đánh thành Khâm Châu bằng đường biển kẻo làm rối loạn lòng dân chúng.

Đêm mười chín tháng mười một, dân đánh cá tâu rằng có nhiều chiến thuyền đánh cá ra khơi không về. Họ ngờ rằng thuyền bị một đám quân lớn đang tụ ngoài biển giữ lại. Rất có thể hạm đội Đại Việt đã đổ đầy cửa biển ngoài khơi. Nhưng quan họ Trần vẫn không thể nào tin được. Hắn mắng át đi:

- Thuyền đánh cá đi cách đêm là chuyện thường… Khi gặp mẻ lưới nặng tay, khi đuổi theo đàn cá lớn, đi hai ba ngày ngoài khơi đâu có là chuyện lạ… Sao các người lại nghĩ ra cái chuyện có hạm đội Đại Việt được… Bọn Đại Việt lấy đâu ra nhiều thuyền bè vượt biển mà kéo nhau đến đây…

Nói rồi quan Thừa chỉ truyền mở tiệc rượu. Nhưng rượu chưa kịp nhắp mới bày ra trên bàn thì có tin cấp báo là trên cửa bể xuất hiện hàng ngàn cánh buồm lạ cắm cờ tiết ghi rõ hai chữ Đại Việt. Trần Vĩnh Thái lật đật chạy lên mặt thành thì thuyến chiến Đại Việt đã theo thủy triều ào ạt đổ bộ vào bến cát. Thuyền chiến Đại Việt rất lớn, lớn hơn cả những thuyền mũi bằng mà dân vùng Hoa Hạ quen gọi là tàu ô. Sạp thuyền chiến Đại Việt rộng như cái sàn lớn, chở được cả voi chiến. Voi chiến Đại Việt lừng lững như những trái núi, vừa đạp nát tất cả những đồn trại tuần phòng ngoài ngọai vi bờ biển vừa kéo máy bắn đá và vân thê (thang mây) đánh thành tiến đến chân lũy.

Máy bắn đá tạo nên một trận giông bão khủng khiếp. Những khối đá lớn bay bổng lên không trung và dội xuống thành làm vỡ tất cả các mái thành, đè chết những viên tướng đang thúc quân ra cản sự tấn công của quân Đại Việt. Các thang mây bằng gỗ đã được bắc lên thành. Và những dũng sĩ Đại Việt lưng đeo khiên mây leo lên thang thoăn thoắt dưới sự yểm hộ của những trận mưa tên rào rào. Chỉ trong khoảnh khắc, quân Đại Việt đã làm chủ mặt thành, cướp cửa chính, hạ thang treo cầu nối giữa cổng thành và bờ lũy ngoài, ngăn cách bởi hào sâu… để đón đại quân tiến vào cướp thành.

Chưa kịp chống đỡ thì Trần Thừa chỉ đã bị bắt cùng toàn bộ đám thủ hạ, và bị dẫn đến trước mặt một vị tướng Đại Việt không có râu. Vị tướng Đại Việt bảo lũ tướng Tống bại trận rằng:

- Lũ chúng mày tích binh, tích lương thảo để chuẩn bị kéo sang nước ta. Ta tiến binh không thèm chiếm đất, không thèm giết người. Chỉ phá tan thành quách, đốt hết lương thảo, phá tan các đạo quân đang tụ lại… Nếu các ngươi không chống cự ta, ta không cần mạng sống của các người làm bẩn gươm ta…

Nhưng cà cuống chết đến đít vẫn cay, Thừa chỉ Trần Vĩnh Thái vẫn lên mặt ta đây là quan nước Đại Tống, coi đám man di bằng nửa con mắt, nên cao giọng mắng rằng:

- Lũ man chúng mày dám phạm đến bờ cõi Đại Tống, chúng mày mắc vào trọng tội… Muốn sống thì phải tự bỏ giáo mà hàng, may ra ta tâu về triều đình xin tha tội chết cho. Bằng không ta dẫn đại quân sang tận sào huyệt Thăng Long, đào mả tổ tiên chúng mày lên để trừng phạt…

Cái giọng láo xược của tên tù binh làm cho vị tướng không thể nào chịu được, vì thế ông không muốn giết cũng không được. Ông phất tay cho quân lính điệu cả bọn ra ngoài mặt thành, chém đầu bêu trên bãi chợ để làm gương cho những tên quan tướng Tống ngu xuẩn và cứng đầu.

Từ Khâm Châu ngay ngày hôm sau Lý Thường Kiệt phát binh ra lệnh cho các tù trưởng các man động phía bắc của ta tiến quân ào ạt sang đánh phá.

Một đám những tên tướng Tống ương ngạnh kéo nhau chạy ra các thành lẻ tìm kế chống lại, bị các tướng của Lý Thường Kiệt sai đi đánh giết. Đầu của bọn chúng bị bêu ngay vào buổi sáng hôm sau.

Tiết chế Lý Thường Kiệt thừa thắng, chia quân làm hai đạo thủy bộ tiến thẳng xuống Liêm Châu.

Tin mất Khâm Châu làm quân tướng giặc ở Liêm Châu rung động hoảng hốt. Tướng Tống coi Liêm Châu vội sai đóng kín cửa thành và cho quân kỵ mã tỏa về các nơi xin viện binh cùng phối hợp chống cự. Nhưng chúng không kịp bày trận đồ thì đại quân đã đến trước thành. Súng bắn đá lại dội những trận mưa đá trên mặt thành và các cỗ thang mây được voi kéo đến sát chân thành để mở lối cho những đô dũng thủ lăn khiên đánh đại lao, mã tấu và lính đánh câu liêm ào ạt leo lên chiếm các đài cao. Quân ở Liêm Châu có chuẩn bị nên chống cự mãnh liệt hơn. Vì thế cuộc chiến ở đây khá khốc liệt. Suốt một ngày giao tranh dữ dội, đại quân Lý đã chém chết tám ngàn đầu giặc, và làm chủ thành này vào đúng ngày thứ ba của cuộc đổ bộ từ biển vào… Đến lúc đó những đạo quân các nơi được phí báo nghe lệnh của tướng coi Liêm Châu là Lỗ Khánh Tôn mới lũ lượt kéo binh về định kế trong đánh ra ngoài đánh vào, ép đại quân Lý ở giữa để tiêu diệt. Nhưng quân cứu viện đông như kiến vừa tới nơi đã thấy đầu của Lỗ Khánh Tôn treo lủng lẳng trên cột cờ chính của thành Liêm Châu. Bọn chúng hồn vía rụng rời, tranh cướp đường, đạp lên nhau bỏ chạy.

Lý Thường Kiệt tung đội voi chiến truy kích. Hàng ngàn giặc bị chân voi xéo nát.

Bằng cách hành quân thần tốc đúng lúc bất ngờ nhất, nên chỉ trong ba ngày đại quân của Lý Thường Kiệt đã làm chủ hai thành lớn của vùng biển Hoa Hạ và hai hải cảng lớn ở đây. Tại đây, các đời vua Tống nhất là Tống Thần Tông đã sai nhiều tướng vận chuyển lương thảo tích tụ những kho lương vô cùng lớn. Để khi cần điều quân đánh Giao Chỉ thì có thể chở lương thảo từ đây đi theo đường bể tiếp tế cho đại quân. Vì một thuyền chở quân lương có thể thay cho hàng ngàn người khuân vác, hàng trăm ngựa thồ đi ròng rã vượt đèo vượt suối hàng tháng trời vất vả. Kho lương thực mà vua tôi nhà Tống trữ ở hai hải cảng lớn nhất Hoa Hạ này đủ chu cấp cho cả đạo quân mười vạn người đánh ròng rã trong một cuộc chiến kéo dài hàng năm trời… Thế mà chỉ trong ba ngày kho quân lương tích tụ hơn chục năm trời đó đã rơi vào tay quân Đại Việt.

Lý Thường Kiệt cướp hàng trăm thuyền vận tải của quân Tống, cắt quân lo việc chở lương thảo về nước, đồng thời để cứu đói cho đám dân quanh vùng đang mất mùa, ông cũng sai trích kho lương ra phát chẩn… hàng vạn dân quanh vùng đến lĩnh chẩn của quân Đại Việt không ngớt lời ca tụng công đức của đức ông Tướng quân Tiết chế họ Lý của nước Đại Việt. Cùng với cấp gạo phát chẩn cứu đói, Lý Thường Kiệt giao vào tay từng người bản hịch có tên là Lộ bố văn. Dân đói lĩnh chẩn mang bài hịch Lộ về khắp các hang cùng ngõ hẻm và truyền nhau đọc. Trong lời Lộ bố (tức là lời tuyên bố trên đường tiến quân) Tiết chế Lý Thường Kiệt viết rằng: “Ta đến đây thấy dân đói khổ, phải phá những kho quân lương tàng trữ để gây chiến tranh, cấp phát cứu đói cho dân. Dân Trung Nguyên từ lâu nay khổ vì chuẩn bị chiến tranh lại càng khổ hơn vì những chính sách gây cảnh đói kém kéo dài… Vì lẽ ấy ta phải đem đại quân đến cứu…”

Lời Lộ bố vừa phát đi đã làm rung động cả miền Hoa Hạ truyền nhanh đến tận triều đình vua Tống Thần Tông. Những cách quân của các tù trưởng giáp động tiến ở hướng chính nam lên chính bắc đã chụm lại, để mở một mũi nhọn đột kích vượt qua gần hai trăm dặm đường thiên lý tới thành Ung Châu. Đạo quân của tù trưởng Nùng Tông Đản đi tiên phong đã tiến tới chân thành sớm nhất. Đạo quân đó không đông, và mệt mỏi vì chặng đường dài vừa hành quân vừa đánh hết trận lớn đến trận nhỏ. Nếu Lưu Di còn đủ trí sáng suốt y sẽ nhận ra ngay đạo quân kia chỉ có vài trăm tay giáo, năm thớt voi, một trăm chiến mã. Quân số ấy không bằng một phần hai mươi đám quân đang đóng giữ thành Ung Châu và các đồn lẻ ngoại vi thành. Viên tướng già lão luyện Tô Giàm nai nịt gọn gàng xin điểm một vạn binh từ thành Ung Châu xông ra đánh cánh quân của tù trưởng Nông Tôn Đản. Tô Giàm bàn với Lưu Di rằng:

- Xin đại nhân ở lại giữ thành. Tôi chỉ lấy nửa số quân là một vạn tay thương tay kiếm xông ra, quyết đánh một trận bắt tên tướng tiên phong của giặc, rồi kéo lên chiếm lại ngọn đèo Quỷ ở đường thương đạo ngăn giặc từ xa. Còn đại nhân truyền lệnh tập hợp quân binh tất cả các nơi khắp vùng Hoa Hạ, chắc chắn cũng thu được mười vạn người ngựa, như thế lo gì ta không chặn được giắc từ xa, để đợi quân triều đình tới cùng ta phản công giặc đuổi chúng về tận hang ổ để trừng trị.

Nếu Lưu Di bình tĩnh thì đã nghe theo lời của viên lão tướng Tô Giàm. Nhưng lúc này Lưu Di thần hồn nát thần tính, nên đã kiên quyết không cho viên lão tướng xuất quân. Không những thế hắn còn mang theo một số quân hộ tống rút về Quế Châu, và dặn Tô Giàm rằng:

- Tướng quân chớ mắc mưu giặc… Giặc đến ít là để nhử ta ra khỏi thành, khinh địch ham đánh đuổi theo chúng, rồi chúng kéo đại binh vào đánh úp thì tính lành sao? Hay tốt nhất tướng quân cứ đóng cố thủ trong thành, còn tôi về gấp Quế Châu kén binh mã, xin quân cứu viện của triều đình… Đến lúc đó ta đánh quật lại nắm lấy cái thắng chắc như nhặt quan tiền ở sẵn trong túi áo.

Nói rồi không cho Tô Giàm bàm thêm một câu nào nữa, Lưu Di mang một ngàn quân kỵ mã hộ tống chạy bán sống bán chết về thành Quế Châu.

Thế là thành Ung Châu đông đặc quân sĩ, trữ lương có thể cố thủ đến ba năm không cạn; thành cao hào sâu bỗng nhiên đóng cửa thành cố thủ trước đạo quân có vài trăm người.

Cùng lúc đó, đại quân của Tiết chế Lý Thường Kiệt chính thức phát binh tiến về phía nội địa. Lý Thường Kiệt chia đại quân của mình làm hai đạo. Đạo quân chính là quân vẫn đóng tại Khâm Châu do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy, thì hành quân ào ạt tiến về Ung Châu. Còn đạo quân chiếm thành Liêm Châu lại đánh quặt lên hướng đông bắc. Nhằm đánh vào thành Châu Bạch. Viên đô tuần kiểm quân Tống là Thẩm Tông Cổ cố thủ trong thành, nhưng thành không giữ nổi trước sức công phá mãnh liệt. Thẩm Tông Cổ bị chém giữa trận. Thừa thắng đạo quân đó lại được lệnh tiến lên châu Dung. Viên đô thống tuần kiểm suốt các châu Bạch, châu Dung là Phan Nhược Cốc đã đốc thúc hai viên chỉ sứ là Vương Đạt và Tào Quang vét tất cả quân lính trong hai châu đưa vào thành châu Dung cố thủ. Nhưng đạo quân gương cờ Đại Việt đã san phẳng thành này giết chết tươi tất cả ba viên tướng cầm đầu là Phan Nhược Cốc, Vương Đạt và Tào Quang… Cả một vùng Hoa Trung phía đông đều rung động. Quân các thành các châu đóng cửa thành cố thủ nơm nớp chờ đợi quân Đại Việt đến đánh nhưng đạo quân Đại Việt này đóng lại ở thành châu Dung hư trương thanh thế chứ không ham thắng mà tiến lên nữa. Ngầm ý của Tiết chế Lý Thường Kiệt dùng đạo quân này để cắt đứt con đường cứu viện từ phía đông của quân Tống đến cứu thành Ung Châu

Những tin tức của của hành binh quy mô của Đại Việt tràn vào vùng Hoa Hạ và tiến sâu hai trăm dặm trong lòng nội địa đến tận thành Ung Châu liên tiếp dồn về gây rồi loạn tinh thần của vua tôi nhà Tống. Ngay từ khi tin mất thành Khâm Châu, viên chỉ sứ kinh lược Quảng Nam đã tâu về triều bằng con đường hỏa tốc xin cứu viện thêm hai vạn bộ binh, ba ngàn kỵ binh và xin biện trước một tháng lương theo quân vì tất cả các kho đụn dự trữ tụ lại mười năm nay ở vùng Hoa Hạ đều có nguy cơ rơi hết vào tay quân Đại Việt. Lại xin viên chỉ sứ đặc mệnh của hoàng đế theo với đại quân… Nhưng lời tấu xin vừa gửi đi thì tin thành Liêm Châu mất cũng vừa đến… Viện kinh lược Quảng Nam Tây lộ lại lại hốt hoảng viết biểu tâu về triều xin thêm khí giới quân dụng và xin được có những đạo chỉ của vua để tùy nghi điều động quân các khê động. Rồi tấu biểu vừa gửi đi, chưa kịp có hồi âm thì lại nghe tin thành lũy châu Bạch rồi châu Dung lần lượt thất thủ… Viện kinh lược Quảng Nam tây lộ lại lật đật viết biểu xin rời ty kinh lược của mình vào thành Tượng Châu kiên cố để tiện điều binh khiển tướng vùng khê động…

Những tin tức chậm chạp từ kinh về đến vùng Hoa Hạ làm cho Tống Thần Tông vô cùng bực tức. Nhà vua xuống lệnh cho lập gấp các trạm dịch mã, các đài lôi hỏa để thông tin chiến sự thật mau chóng. Vua và hai viên chỉ sứ Trương Thuật và Tạ Quí Thành phải đến ngay ty kinh lược Quảng Tây để chuẩn bị sẵn sàng các tướng lệnh. Thế quân của Đại Việt tiến như vũ bão làm cho Tống Thần Tông vô cùng bối rối. Vua Tống chỉ sợ thừa thắng quân Đại Việt sẽ tiến vào chiếm các vùng thuộc ty Quảng Châu kinh lược và Quảng Nam tây lộ rồi đánh thẳng vào Hoa Trung. Nhà vua vội hạ chiếu cho tất cả các thành trì, các ty kinh lược, từ Hoa Trung trở xuống phải củng cố thành lũy, phòng bị cẩn mật. Lại dặn các viên quan coi châu coi huyện coi thành trì phải lấy cố thủ làm chính… Quân lính tướng tá cứ thế là tụ cả vào trong thành lo xây thành đắp lũy tích lương, không thể nào trích đâu ra quân để ứng cứu cho những nơi bị quân Đại Việt công phá ào ạt. Nguy cơ ấy làm cho các võ tướng lo ngại, đã mấy lần rập đầu xuống bệ rồng để can gián, xin tập trung kéo xuống đánh dẹp. Nhưng Tống Thần Tông chỉ lo phòng thủ thật dày đặc, không để cho quân Đại Việt có cơ hội đánh sâu vào nội địa, nhất là đánh vào kinh đô nơi mình đang trú ngụ. Vì thế từ kinh đô, chiếu chỉ vẫn truyền cho các quan tướng biết rằng: “Quân Giao Chỉ chỉ đánh chiếm phạm vào đất Khâm Châu chưa lui. Sợ nó theo bờ bể dòm ngó Quảng Châu. Nên các ngươi phải lo mà giữ. Nay xét, thấy quân các thành trại các đồn binh ở Quảng Nam tây lộ yếu và ít ỏi, lại tản mát phân tán. Nếu không cố thủ tại các thành trì, giặc kéo đến tất tan vỡ. Mà quân ta vỡ thì tiếng tăm của giặc, uy danh của giặc càng tăng nhanh, thanh thế của giặc càng làm cho sĩ tốt của ta chỉ nghe hơi giặc đã mất hết chí khí cầm gươm hoành giáo chống cự với giặc. Vậy chiếu cho các tướng giữ Quảng Nam tây lộ phải bảo các thuộc cấp giữ thành không được khinh thường sức mạnh của giạc Giao Chỉ. Phải cố thủ trong những thành trì. Không được ham công mà đánh liều ra ngoài thành dễ bị vào thế trận bày sẵn của giặc…”

Nhưng rồi tin tức các thành trì lớn nhỏ mất dần mất mòn cứ dồn dập bay đến kinh đô, Tống Thần Tông đổi lại chủ trương cố thủ toàn bộ thành trì. Tiết chế Tể chấp hạ chiếu bắt cá tướng sĩ vùng Hoa Hạ: “Nếu xem quân Giao Chỉ đánh tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ những chỗ hiểm yếu nhất mà thôi. Nơi nào có kho tiền vải lương thực tích lũy từ trước để chuẩn bị cho việc tiến binh, thì phải lo mà chở tháo đi cất giấu, đừng để lọt vào tay giặc…”

Lệnh này của nhà vua làm cho tất cả thành trì vùng Hoa Hạ rối loạn, tất cả các tướng run sợ trước sức mạnh tấn công của quân Đại Việt đều thấy thành mình giữ không được vững chắc lắm, thành không cao hào không sâu, thế là cứ vịn vào việc chỉ cần giữ những chỗ hiểm yếu và chở tháo lương thực quân dụng, kéo nhau bỏ thành mà thồ hàng hóa đi không cần chờ giặc đến đánh chác gì nữa. Việc này làm cho cả vùng Hoa Hạ rối loạn, các quan trong triều rất là Vương An Thạch rập đầu can ngăn, vua Tống Thần Tông lạ hạ một chiếu chỉ ngược lại hẳn hai chiếu chỉ vừa ban mấy ngày trước. Chiếu chỉ này nói rằng: “Quân mà bỏ thành chạy đi chỗ khác tất làm lòng dân biến động. Làm dân sợ mà đầu hàng giặc trước khi giặc tới. Vậy ta lệnh cho các quan phải trở lại thành của mình…”

Vua Tống Thần Tông đã lúng túng như vậy, mà hàng ngày lại bị những biểu tấu của kinh lược sữ Lưu Di gửi về hối thúc xin viện binh, mỗi lúc một ráo riết, tin tức của viên quan này đưa về cùng những kế sách dâng lên thì cứ thay đổi từng ngày như cái chong chóng. Nhà vua lại càng bối rối… Bối rối mà chẳng biết trị tội ai, Tống Thần Tông bèn hạ lệnh cách chức Lưu Di, sai viên quan thân tín của mình là Thạch Giám cấp tốc xuống thành Quế Châu, tể tước quyền của Lưu Di và kiêm luôn cả chức kinh lược sứ Quảng Nam tây lộ. Để viên quan bị đẩy vào đất chết có thêm sức gắng gượng, vua thương tình sai mở ngân khố cấp cho Thạch Giám năm vạn quan tiền. Lại sai các vùng quanh Hoa Hạ mộ quân gấp rút và gấp rút trữ lương thảo. Bắt các đất còn lại của Quảng Nam tây lộ tích bằng đủ 57 vạn thạch ngũ cốc, lại phải tích thêm 10 vạn thạch đậu. Kinh Nam phải biện đủ 3 vạn thạch gạo. Phúc Kiến phải biện đủ 3 vạn thạch cao lương… Lệnh mộ binh gấp rút bắt cho đủ số ba ngàn hai trăm quân tại các châu Phú, châu Ung, châu Tân. Bắt cả các thổ dân các châu khác để bổ thêm vào. Không hạn định số lượng, hễ cứ thấy trai tráng có sức khỏe là lùa vào quân, không đợi điểm hộ tịch ghi tên, cứ đủ số 500 binh tráng là dẫn ngay đến Quế Châu, trên đường thì đặt gấp ngay quan chỉ huy. Tới Quế Châu thì tập trung lại, có bao nhiêu là cử ngay tướng rèn luyện võ nghệ, cấp quân khí, áo giáp rồi đưa tới các thành trì để trấn giữ, gọi là quân Tân Đằng Hải…

Vua Tống Thần Tông đã điều động quân tràn cõi Trung Nguyên rối loạn đến mức khắp nơi thấy quân trẩy ngang dọc, khắp nơi sắm sanh vũ khí, khắp nơi tích tụ lương thực… Cả cõi Trung Hoa như chìm trong cơn biến loạn khủng khiếp.

Tể tướng Vương An Thạch thì bình tĩnh hơn, thâm trầm hơn. Y im lặng theo dõi từng biến động ở mạn nam thùy. Y chỉ nổi điên lên khi các viên cựu thần lấy lời của lộ bố văn làm bằng chứng để đổ tội cho các chính sách gây nên loạn lạc trong nước. Vương An Thạch căm viên tướng Đại Việt dám đả kích vào chính sách của mình, và làm cho mình gặp thêm khó khăn ở ngay giữa triều vào lúc khó khăn nhất của việc nội chính này. Vương An Thạch bèn ngấm ngầm đốc thúc nhà vua tổ chức một đạo quân thật lớn đánh thẳng vào đất Đại Việt để trả hận. Nhưng việc thực hiện mưu đồ của y bây giờ không còn dễ dàng như trước nữa, vì các cựu thần nhân cơ hội này đổ tất cả mọi khó khăn của triều đình là tại Vương An Thạch, không ngừng công kích bài xích viên tể tướng ngông cuồng. Nhưng Vương An Thạch là con người có chí lại đa mưu. Y vẫn kiên trì tiến cử với vua Thần Tồn một võ quan Thiểm Tây tên là Triệu Tiết. Cuối cùng vua Tống Thần Tông đã nghe lời phong cho Triệu Tiết làm An Nam đạo hành doanh kinh lược sứ, nghiêm giữ ấn Quảng Nam tây lộ an phủ sứ… Bằng thế lực của mình, tể tướng Vương An Thạch đổ hết nhân tài vật lực để Triệu Tiết có thể có trong tay hai mươi vạn quân tiến đánh thẳng sang đất Giao Chỉ cho đúng với tướng hiệu là An Nam đạo hành doanh. Vương An Thạch đề cử những viên tướng tin cẩn nhất của mình như Yên Đạt làm phó đô tổng quản, tướng Ôn Cảo đặc trách trong coi việc kê cứu thư từ, lại xin vua cử viên nội quan thuộc ngạch quan hoạn làm phó an phủ sứ.

Vua sai Tư Mã Quang thảo chiếu xuất binh nam phạt, nhưng tể tướng Vương An Thạch bừng bừng lửa giận giằng lấy và tự tay thảo chiếu để trả lời Lộ Bố Văn của Lý Thường Kiệt. Trả thù cái việc viên tướng ở một nước nhỏ dám đả kích hẳn vào chính sách tâm đắc nhất của mình, gây khó khăn cho mình ở ngay chính cái sân triều đình nơi mình làm quan đầu triều với chức tể tướng…

Thảo “Giao Chỉ chiếu” viết rằng:

“Chúa An Nam đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa nhận vỗ về. Thiên triều đã từng tha lỗi cướp ngôi họ Lê. Nay lại phạm vào nội địa, giết hại thần dân. Can tội với nước thiên tử, như thế không thể tha thứ được.

Quân trời tới đánh thật có danh nghĩa.

Nay trẫm sai Triệu Tiết làm An Nam đạo hành doanh, kinh lược sứ. Lê Hiển làm phó an phủ sứ, Yên Đạt làm phó đô tổng quản.

Các người hãy cất quân thủy lực chóng đi!

Trời tỏ muốn giúp nên có điềm sao chổi tốt, người rõ lòng gian nên căm giận quân địch ác.

Chiếu cho quân Giao Chỉ hay, khi thấy quan quân đến thì đừng chạy. Dân chúng đã chịu khổ sở lâu ngày, nếu dỗ được chúa mày vào nội phủ, Trẫm sẽ ban tước lộc cho. Càn Đức còn trẻ, việc làm loạn không phải tự mày gây ra. Ngày nào tới chầu, Trẫm sẽ tha thứ cho…”

Vương An Thạch vốn là người cứng mạnh, khi vua do dự chưa dám động binh, nghĩ rằng chưa phải lúc cất quân đi xa, mà là lúc giữ nhà. Vương An Thạch tâu rằng:

- Có binh trong tay, như có tiền trong túi, không có lúc nào là không dùng được.

Tống Thần Tông hãy có băn khoăn:

- Dụng binh bây giờ thì lấy danh nghĩa gì?

Vương An Thạch trả lời rằng:

- Khi có binh trong tay, lại muốn dùng binh thì danh nghĩa tất có. Nếu bệ hạ muốn dùng binh sao lại không có danh nghĩa…

Vương An Thạch bèn dâng thảo “Giao Chỉ chiếu” lên mà dương dương tự đắc nói rằng:

- Danh nghĩa đây, bệ hạ cần là tất có…

Khi vua tôi nhà Tống điều binh như đèn cù và bàn về danh nghĩa thì phò mã Thân Cảnh Phúc đã tung quân nhổ hết các thành lũy đồn trại mở đường dẫn đại đạo binh mã bao vây Ung Châu và đại quân của Lý Thường Kiệt đã tiến qua núi Thập Vạn Đại Sơn đổ xuống hợp với quân khê động, tiến công thành Ung Châu, một thành trì cứng mạnh kiên cố nhất khắp vùng Hoa Hạ.

Danh tiếng có khối kiến trúc thành trì đồ sộ lũy cao hào sâu này làm cho tể tướng Vương An Thạch đinh ninh tin chắc rằng:

- Các ngươi cứ yên tâm, quân man di Giao Chỉ chẳng bao giờ lấy được thành Ung Châu của Đại Tống cả đâu. Khắp trong đất nước Trung Nguyên nà, thử hỏi xem có thành nào chắc hơn, vững hơn và mạnh hơn thành Ung không? Tượng binh của địch vững mạnh, làm cho bộ binh và lính thiết kỵ của ta hoảng sợ, nhưng đứng trước tường thành Ung Châu khác nào con chuột đứng trước vách đá nghiến răng chịu chết. Máy bắn đá của Giao Chỉ cũng rất lợi hại đối với thành thấp. Nhưng phỏng nó có thể câu những viên đá tảng lên tới lưng thành Ung Châu không nào? Ta nghe sức bắn cao nhất của máy bắn đá Giao Chỉ bắn cao không quá chín trượng. Mà thành Ung cao hơn mười trượng… Đá bắn không với tới sẽ rơi xuống nghiền nát chính lũ quân vây thành… Hơn nữa ở đó ta lại có lão anh hùng Tô Giàm, một vị tướng giữ thành lão luyện, kỳ cựu trong ngạch quan văn rồi võ quan, thông minh có thừa, mưu trí tuyệt với lại có đức cứng mạnh cương quyết. Ta tin rằng lão tướng Tô Giàm sẽ không phụ lòng ta. Sẽ giúp ta giương cái bẫy lớn, làm cho quân tướng Đại Việt bu quanh Ung Châu như lũ kiến bu quanh một miếng mồi, chờ ta đến phóng hỏa thiêu chết hết… Các ngươi cứ tin vào lời ta.

Vương An Thạch là một nhà nho tự tin. Điều mà Vương An Thạch tin là có căn cứ. Đúng là thành Ung Châu mới xây là một thành vô cùng lớn ở vùng Hoa Hạ. Đó là trung tâm rắn chắc nhất của toàn tuyến phòng thủ phía nam thùy. Thành xây bằng đá, chu vi toàn bộ là hơn một ngàn trượng. Thành xây cáo hơn mười trượng. Mặt thành rộng có thể xe chở và người ngựa tiến thoái hành quân ứng cứu dễ dàng. Trên mặt thành lúc nào cũng có hai ngàn cung thủ túc trực. Tức là cứ một trượng có đến ba cung thủ túc trực. Quanh thành laịi có hào sâu rắc đầy chông gai. Trong thành nhà ngói san sát, kế hỏa công không thể dễ dàng dùng được. Hơn nữa thành lại có nguồn nước riêng, bao vây bao nhiêu ngày tháng cũng không thể tuyệt đường nước uống được. Vả lại hơn mười năm tích cốc tụ lương vùng Hoa Hạ, thì Ung Châu đã trở thành một kho quân lương khổng lồ. Số lương hiện giữ trong thành Ung này tính theo sổ sách của ty vận chuyển thì đủ chu cấp nuôi sống cho một đạo quân mười vạn người đánh nhau kéo dài cả một năm… Theo sổ quân tịch, dưới tay Tô Giàm, quân trong thành chỉ có hai nghìn tám trăm lính thường thủ trấn giữ Nhưng từ ngày có biến động ở Hoa Hạ, nhất là khi cánh quân của các thủ lĩnh biên thùy Đại Việt ép phía đông nam thì các thành trì khác hoặc tan vỡ, hoặc nghe lệnh bỏ thành mà chạy của Tống Thần Tông nên cứ kìn kìn chở thêm quân lương vũ kéo về nấp trong cái mai cứng như mai rùa của thành này để rụt đầu nghe sấm động khắp miền Hoa Hạ. Số quân trong thành từ khi tướng quân Tô Giàm muốn xuất kích đánh mũi quân của tù trưởng Nùng Tôn Đản, đã có gần hai vạn. Cho đến khi các cánh quân kéo đến vây thành thì trong thành đã có đến gần ba vạn quân. Ấy là chưa kể có đến hơn một vạn quân ở các thành trì khác chạy về đây để mong chui vào lớp thành cứng trốn cái chết của cuộc tấn công thần tốc, đã chạy đến trước cửa thành. Nhưng Tô Giàm là một viên tướng quỷ quyệt quyết đoán, biết lo xa, đã ra lệnh cho quân mình không mở cửa thành tiếp nhận vì sợ nhiều lẽ. Lẽ thứ nhất sợ quân địch mặc giả, quần áo trà trộn vào các cánh quân Tống lọt vào thành làm nội phản. Lẽ thứ hai cánh linh tráng vỡ trận ô hợp này tinh thần bất định, chí khí chiến đấu đã hết, thần hồn nát thần tính, cho chạy vào gây thêm hoang mang cho lính tráng giữ trong thành. Những còn một lẽ nữa, vốn là người có nhiều mưu ma chước quỷ lại quyết đoán lạnh lùng, nên Tô Giàm muốn lợi dụng đám quân này một bức thành thịt bảo vệ vòng ngoại thành đá vững chắc của mình…

Bởi những lẽ ấy, Tô Giàm không cho quân chạy đến trốn vào thành mà chúng đóng lại trong các vọng lâu, những thành nhỏ ở ngoài thành. Tô Giàm sai quân cung cấp lương thực vũ khí cho đám quân này và bắt bọn họ phải dựa vào hào sâu mà chống giữ đến cùng nếu họ manh tâm muốn hàng thì cung thủ của Tô Giàm đã sắp sẵn ở trên mặt thành bất cứ lúc nào cũng nhằm thẳng lưng họ sả xuống như mưa…

Mưu kế của Tô Giàm hiểm độc đã kéo dài tuổi thọ của thành Ung Châu không ít. Các cánh quân bị buộc vào thế phải tử chiến để giữ lấy mạng sống của mình đã cụm thành những đồn trại độc lập, dựa lưng vào thành vững chắc, quay mũi giáo đẩy dần vòng vây cỉa quân các tù trưởng Giao Chỉ.

Các tù trưởng muốn tiêu diệt các đồn binh này, vừa phải tiến đánh vừa phải đội trên đầu những trận mưa tên những trận mưa đá từ các máy bắn đá và các lỗ châu mai trên mặt thành bắn yểm hộ.

Khi đại quân của Lý Thường Kiệt kéo đến nơi thì các tù trưởng đang bối rối trước những hang ổ kháng cự bất ngờ này. Lý Thường Kiệt bèn hội các tù trưởng và các chư tướng lại mà truyền rằng:

- Từ giờ phút này, ta không phải chỉ đánh bằng lưỡi gươm mà phải đấu bằng trí não với con cáo già Tô Giàm đang ẩn núp trong cái hang bằng đá kiên cố được gọi là thành Ung Châu trước mặt các ngươi đó. Để các ngươi hiểu các ngươi đang phải cầm gươm mà đấu trí với ai, ta mời một nhà sư tên là Cần Giác Thiền Tông kể về tên cáo gì này cho các ngươi nghe… Xin mời hòa thượng…

Vị hòa thượng vén áo cà sa vàng tiến lên trước trướng hổ và bằng cái giọng rủ rỉ rù rì như giọng đọc kinh địa tạng, nhà sư Cần Giác Thiền Tông kể rằng:

- Tôi ẩn tu ở ngôi chùa trên núi Thập Vạn Đại Sơn đã nhiều năm nay nên tôi biết rất rõ vị lão tướng Tô Giàm này. Tô Giàm không là tướng từ ngạch võ xuất thân , mà vốn là quan văn, xuất thân từ cửa Khổng sân Trình. Đã từng đỗ tiến sĩ cập đệ, được bổ đi coi một viên châu phương bắc. Rồi do chinh chiến kéo dài mà buộc phải cầm quân và nổi tiếng về tài giữ thành cố thủ. Vì vốn là thư sinh trói gà không chặt, nên Tô Giàm không đánh nhau bằng cưỡi ngựa cầm thương dẫn đầu ba quân xung trận mà đánh nhau bằng cách buông màn ngồi trong trướng hổ đấu trí với tướng địch ở ngoài tầm tên đạn. Tô Giàm vừa nhiều quỷ kế vừa là kẻ thực tiễn, Vì thế lão là một trong những cựu đại thần đại nho của phái cũ đững ra ủng hộ tể tướng trẻ tuổi ngông cuồng Vương An Thạch. Và được tể tướng họ Vương hết sức tin cậy. Vì thế Vương An Thạch mới bổ Tô Giàm về coi thành Ung Châu này đã năm năm nay. Năm năm viên võ tướng xuất thân từ ngạch mưu sĩ này đã đủ thời giờ để thuộc từng viên đá trong thành đến ngọn cỏ trước thành… Có mắt nhìn xa trông rộng, Tô Giàm đã đoán biết chuyện binh đao không tránh khỏi, mà trước thành Ung tất sẽ thành bãi chiến trường. Vì thế đã từ năm năm nay Tô Giàm suy nghĩ mưu kế để đánh nhau giữ thành…

Lý Thường Kiệt gật đầu khen:

- Hòa thượng đã giúp ta hiểu được tướng giặc, đó là cái lẽ biết người biết mình trăm trận đánh trăm trận thắng trong binh thư. Nhưng theo hòa thượng thì Tô Giàm sở cậy vào điều gì mà cố thủ trong thành chơ vơ này?

- Thưa tướng công, tôi nghe nói, khi nghe tin có đạo quân đầu tiên của ta do tù trưởng Nùng Tôn Đản thống lĩnh, Tô Giàm đã tỏ ý muốn đánh đòn và bắt quân ta bằng một số quân đông gấp mười lần mà lúc đó Tô Giàm dễ dàng huy động được. Nhưng Lưu Di đã can ngăn, vì thần hồn nát thần tính. Vì thế tuy chịu cố thủ trong thành, nhưng Tô Giàm vẫn có chí chống trả quyết liệt. Đến khi các tù trưởng kéo quân man động mỗi lúc một đông đến vây thành thì lính tráng quan quân khắp nơi chạy tràn vào thành rất là đông. Tình trạng quân hồi vô phèng hỗn độn đã xảy ra. Để nghiêm quân phép, Tô Giàm bắt hú họa vài mươi người dân vu cho tội gây nhiễu loạn có ý hàng giặc lôi ra giữa chợ chính trong thành không xét xử chỉ kể tội rồi sai quân chém đầu. Ngay ở giữa pháp trường, Tô Giàm hô hào quân lính, thân hào nhân sĩ, các tướng trong quân, ai có tài dũng thì bày tỏ phương lược để chia nhau phòng thủ. Khi quân ta vây đông đặc ngoài thành thì Tô Giàm bèn họp cả dân chúng lại chém đầu thêm những kẻ hèn nhát, lập lại quân lệnh rồi bày tất cả các thứ của công của tư trước mặt mọi người mà truyền rằng: “Khí giới ta dự bị đầy đủ, lương thảo ta trữ cũng không thiếu. Bây giờ giặc đến dưới thành. Chỉ còn có cách cố thủ lấy thành để đợi triều đình quân ngoại viện. Lúc ấy trong ta mở cửa thành đánh ra, ngoài vạn vạn binh mã triều đình vây chặt, đánh một trận sống mái tất ta sẽ nắm lấy phần thắng trong tay. Nếu có ai dưới trướng ta đây mà hoảng sợ bỏ chạy, gây nên việc lòng dân náo động, lòng dân không yên thì đại sự sẽ hỏng. Nếu các ngươi nghe ta sống chết cố thủ thì sẽ được hậu thưởng. Bằng không nghe ta, sợ giặc mà bỏ chạy, ta sẽ sai chém đầu lấy lại quân luật cho ba quân”. Tô Giàm nói là giữ lấy lời như đinh đóng cột, như dao chém đá. Viên quan đại hiệu chỉ mới có ý định trốn, có người phát giác, Tô Giàm cũng sai quân bắt về đưa chém đầu. Vì thế mà trong thành ai cũng sơ, không ai dám bàn tán đến việc rút chạy. Đến ngay con trai Tô Giàm vốn làm quan ở Quế Châu, mấy tuần trước về đây thăm bố nhân ngày giỗ kỵ, nay muốn đưa cả vợ con trở lại nơi nhậm chức, Giàm cũng không cho. Và nêu việc đó làm gương trong quân ngũ. Làm cho các tướng không ai dám cho vợ con trốn ra ngoài thành. Ngay cả đám quân Tô Giàm đẩy vào cõi chết cũng không dám cưỡng lệnh… Phải liều chết chống cự. Tô Giàm lại sai quân dựng rất nhiều dàn cung, loại cung bắn một lần bay ra cả một trận mưa tên để bảo vệ cho đám quân đóng ở chân thành giữ không cho quân Lý đến gần chân thành… Vì thế mà ta đánh nó đến nay vẫn chưa vượt được vòng lũy đầu của thành trì này…

Nghe vị hòa thượng vạch hết mưu kế của viên tướng giữ thành cố thủ, các tù trưởng đều lắc đầu giậm chân bực tức. Vị hòa thượng lại nói thêm:

- Đường này từ đây đến thành phố Quế Châu là đường quan lộ, lại thuận tiện cho việc điều quân tiếp viện. Giữa thành Ung và thành Quế chỉ cách nhau có mười bốn ngày đường đi bộ. Cách năm ngày hành quân của quân kỵ, và bảy ngày hành quân đi bằng thuyền chiến… Tô Giàm đặc sở cậy vào con đường hành quân thuận tiện của quân cứu viện này mà cố sống cố chết chống đỡ. Hơn nữa tại thành Quế Châu theo lệnh của vua Tống Thần Tông đang gấp rút tuyển binh và huấn luyện binh để chi viện… Quân tập trung rất đông…

Lý Thường Kiệt gật đầu ra dáng bằng lòng, nhưng ông lại hỏi tiếp một câu:

- Chẳng hay hòa thượng đã lần nào đi từ đây theo đường quan lộ đến thành Quế chưa?

Vị hòa thượng lần tràng hạt vẫn giữ nét mặt nghiêm trang:

- A di đà phật… bần tăng ăn mày cửa phật đã lâu… lại có dịp đi thỉnh kinh mãi tận chùa Thái Hàng… nên cũng có lần qua lại con đường này.

- Ta đã đọc sách dư địa chí Trung Nguyên có thấy nói về ngọn đèo dựng ải Côn Lôn ở ngay phía bắc thành Ung trên con đường nối giữa Ung Quế là vô cùng hiểm yếu, hòa thượng đã qua có thấy sách viết đúng như thế không?

- A di đà phật… bần tăng không biết gì đến chuyện binh đao nhưng nếu phải vào sái thế đã đứng trên đỉnh đèo thì một trăm tên cướp cũng không thể cướp hồ lô rượu của bần tăng được…

Lý Thường Kiệt cười:

- À ra thế… ra thế… xin đội ơn hòa thượng…

Rồi Lý Thường Kiệt quay lại vẫy tay ra hiệu cho phò mã Thân Cảnh Phúc và tù trưởng Lưu Kỷ, nói nhỏ mấy câu. Hai viên tướng hớn hở bái tạ đi ra ngay… Lập tức trong doanh trại viên tù trưởng chuyên môn buôn ngựa dọc biên giới, tiếng ngựa hý vang lừng và bản doanh của phò mã Thân Cảnh Phúc tiếng trống đồng vang động trời đất… Hai cánh quân lặng lẽ cuối cờ tiến lên phía bắc…

Xong rồi Lý Thường Kiệt quay lại hỏi tù trưởng Vi Thủ An:

- Làm sao quân của thủ lĩnh không tiến được vào đến chân thành để nhổ cái đồn tiền tiêu phía nam.

- Bẩm tướng công, trên mặt thành giặc đặt nhiều cung bắn xuống như mưa. Quân ta đi vào bị tên cản lại… không thể giáp vào đồn tiền tiêu của giặc được… Mà bọn ở đồn tiền tiêu này đã bị Tô Giàm đẩy vào cái thế chỉ có đánh ra thì sống, không đánh ra tất chết… Tất cả mười hai đồn tiền tiêu dựa lưng vào tường thành đều ở cái thế như vậy cả… Ta nhổ được đủ mười hai đồn trại này thì sinh mạng binh tướng phải đổ ra không biết bao nhiêu mà kể…

Lý Thường Kiệt lắc đầu:

- Ta chỉ cần nhổ một đồn trại dựa vào chính cửa nam thành đúng hướng tấn công của thủ lĩnh mà thôi… Thủ lĩnh có dám liều chết hay chăng?

Vi Thủ An đứng phắt dậy:

- Bẩm tướng công, thân làm tướng, da ngựa bọc thây là lẽ thường tình, cái chết nhẹ tựa lông hồng, lệnh quân nặng như núi Thái… Xin tướng quân cứ ra tướng lệnh.

Lý Thường Kiệt cười nhẹ:

- Ta hỏi thủ lĩnh có dám liều chết không là để đưa thủ lĩnh đến chỗ sống oanh liệt chứ không phải đưa đến chỗ chết thôi đâu… Bởi vì người đã cầm ngọn thương thì chỉ có đi vào cái chết mỡi tìm được cái sống… Nhưng đi vào phải đi bằng cách nào mới được… Nay không thể tới sát được đồn trại giặc ở chân thành… Thủ lĩnh và bộ hạ của mình bị tên đạn giặc ngăn lại… Vậy đêm nay thủ lĩnh kén cho ta hai trăm võ sĩ cầm đoản đao, đầu đội khiên mây…

- Bẩm tướng công sao lại thế…

- Cần phải thế, làm tướng đừng hỏi tại sao… Ta bảo phải đội khiên mây lên đầu như đội nói, là các ngươi cứ đội… Nửa đêm về sáng hôm nay ta sẽ ra lệnh cho đại quân rung trống hư trương thanh thế làm như đánh tất cả các mặt thành, nhổ tất cả các đồn trại dựa lưng vào tường thành, để các dũng sĩ của nhà ngươi cưỡi ngựa mạnh lao thẳng vào đồn giặc, lao thật nhanh rồi vứt ngựa mà nhảy xuống đánh cận chiến, giáp vào giặc vai sát vai, ngực sát ngực theo cách đánh giáp lá cà… Lúc ấy các ngươi chỉ cần chém lấy một tên giặc thì cung tên trên mặt thành sẽ giết hộ các ngươi mười tên giặc… Cứ bảo với các dũng sĩ nghe lời ta mà liều chết xông vào…

Không hiểu hết lời Lý Thường Kiệt nhưng Vi Thủ An cứ cúi đầu nhận lệnh. Đúng đến giờ sửu đêm đó, cả vùng thành Ung Châu vang rền tiếng trống đồng dữ dội… Quân triển khai t


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.