Quang Toản mừng rỡ với thành công mới đến từ thuốc nổ, lệnh cho Thomas cứ dựa vào đó mà nghiên cứu cách sản xuất công nghiệp, đặc biệt căn dặn lão cách xử lý và những quy tắc an toàn liên quan đến hai loại thuốc nổ này, từ sản xuất cho đến bảo quản, di chuyển và sử dụng, hắn nhất nhất ghi ra bắt lão cứ y theo đó mà thực hiện, Quang Toản cho Phan Thuận và Thomas lựa chọn những nhân viên cẩn thận nhất, dành thời gian để học tập về an toàn lao động trong lúc chờ đợi công nhân xây dựng xưởng sản xuất.
Dưới tay Phan Thuận công nhân làm việc ngày càng đông, các hạng mục sản xuất ngày một nhiều, thành Phú Xuân trở nên chật hẹp không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng, hắn lại chưa nghĩ đến việc cho mở rộng kinh đô, đành sắp xếp một khu vực trống trải rộng hai dặm vuông trên một quả đồi cách Phú Xuân chín dặm về phía tây, Quang Toản cho công nhân xây hai lớp tường cao ba mét cách nhau một mét có thép gia cố, ở giữa đắp cát đá, như vạn lý trường thành thu nhỏ, lính tuần tra có thể đi trên tường thành, cách năm mươi mét có một trạm gác, phía ngoài tường còn sắp đặt trạm gác ngầm, lính tuần tra có mang theo chó săn, an ninh bảo đảm tuyệt đối.
Bên trong xây dựng nhiều nhà xưởng san sát nhau, có cả nhà kho và nơi nghỉ ngơi cơm nước cho công nhân, có phòng thí nghiệm, có sân bãi phục vụ cho việc thử nghiệm, riêng xưởng sản xuất thuốc nổ được đặt cách ly xa hơn so với các nơi khác, nơi đây được canh giữ cẩn mật, phát hiện người không có phận sự đến gần trong khoảng trăm mét liền giết chết bất luận tội, trở thành chỗ cơ mật tuyệt đối, hơn cả hoàng cung. Các nơi được liên kết với nhau bằng những trục đường vuông vức như bàn cờ, Quang Toản hướng dẫn Phan Thuận và Phan Viễn sắp xếp nhân công và nhà xưởng sao cho hợp lý chia ra từng khâu theo cách sản xuất dây chuyền, đầu tiên nhằm tránh để lộ bí mật công nghệ ra ngoài sau lại giúp tăng năng suất lao động. Quang Toản còn cho làm đường nối liền từ đây về Phú Xuân, đặt tên gọi là vùng Công Nghiệp Quốc Phòng, trong tối lại gọi là Vùng Cấm 2.
Ngoài sáng Trần Quách Tĩnh cho quân bảo vệ ngàn người, Dương Thiếc kiểm soát người ra vào, trong tối Trần Đình Tâm xếp người tra xét, Quang Toản hoàn toàn có thể yên tâm về mức độ bí mật nơi đây.
Lại nói để xây dựng công trình như vậy Quang Toản cần thuê mướn rất nhiều nhân công, may sao lúc này Amina Smith đưa đến cho hắn một đề nghị không tồi, hằng tháng Quang Toản phải cung cấp cho hắn 2000 mét vuông gương soi, đổi lại hắn đem đến cho Quang Toản 10000 nole. Quang Toản thấy cuộc làm ăn này mình có lời chán, lại nghĩ đến vấn đề lâu dài nên đưa ra một vài yêu cầu:
Đầu tiên: ưu tiên nhận nô lệ là gia đình, yêu cầu phải có ít nhất một người trong độ tuổi lao động.
Thứ hai: không phân biệt chủng tộc, giới tính hay tôn giáo, mỗi người trong độ tuổi lao động sẽ tính một đơn vị nole
Thứ ba: những nole là biết làm mỏ hoặc mang theo gia đình được tính hai đơn vị, thợ thủ công, công nhân có nghề được tính ba đơn vị, thủy thủ được tính bốn đơn vị, người trí thức được tính năm đơn vị.
Thứ bốn: Nole không được có tội phạm nguy hiểm. Nole phai còn khả năng lao động.
Thứ năm: cứ 2,5 mét vuông kính đổi lấy 10 đơn vị nole, hoặc theo giá cả tương đương tính theo thị trường Đại Việt mỗi đơn vị nole 50 lượng bạc.
Smith Amine đặc biệt hí hửng với điều kiện này, chẳng do dự mà đáp ứng, thật ra Quang Toản đã quên mất giá cả gương soi hiện tại ở Châu Âu là 1000 lượng bạc một mét vuông, đắt gấp năm lần giá Quang Toản bán ra, cuộc mua bán này Smith Amine lời to, nhưng trong mắt Quang Toản thì hắn mới là lời, có gì lời bằng mỗi tấm gương soi đổi được bốn nole.
Cũng từ đó ngoài Smith Amine, Quang Toản kí với hằng loạt thương đoàn khác những điều khoản tương tự, hàng tháng đưa đến cho hắn vài vạn sức lao động mới, trong đó không thiếu nhiều người có tay nghề tốt, đến từ nhiều chủng tộc và quốc gia khác nhau. Đại Việt trở thành thị trường thu hút nole nhiều thứ hai chỉ sau Bắc Mỹ.
Một năm sau đó, khi nole nhiều, lại đa dạng phức tạp, dẫn đến việc quản lý trở nên khó khăn, không khéo còn có thể đau đầu vì gặp nổi loạn, cộng thêm việc Quang Toản bị ảnh hưởng đến các vấn đề nhân quyền và dân quyền ở kiếp trước, nên hắn đưa ra nhiều quy định có lợi cho nole, đầu tiên là để thu lòng người, thứ hai lại để nole có mục tiêu phấn đấu giúp họ yên tâm làm việc không quậy phá. Sau lại dễ cho người dưới dễ quản lý. Quang Toản quy định:
Điều một: những nole thông qua con đường mua bán khi đến với Đại Viêt nghiễm nhiên trở thành một thành phần của Đại Việt, trung thành với hoàng đế Đại Việt, không được hai lòng. Chỉ một mình và duy nhất Hoàng Đế được quyền sở hữu nole trên toàn lãnh thổ Đại Việt.
Điều hai: Mỗi Nole được cung cấp thẻ bài ghi đầy đủ thông tin về người đó, nole phải bảo vệ tránh mất mát, nếu mất sẽ bị coi như người bất hợp pháp, những nole trước khi được cấp thẻ bài cũng được gọi là người không hợp pháp. Kể từ khi đeo thẻ bài liền gọi là nole hợp pháp.
Điều ba: phát hiện có người cố ý xâm phạm, gián điệp, đột nhập vì bất cứ mục đích, người tạo ra hậu quả nghiêm trọng, người để lộ thông tin cơ mật. Vì bất cứ lý do hay mục đích đều được xếp vào nole quấy rối.
Điều bốn: nole vi phạm pháp luật tại Đại Việt sẽ bị xử theo quy định ban hành mà không cần thông qua bất cứ một tòa án nào.
Điều năm: Nole được chia làm sáu loại như sau:
Loại 1: nole tri thức ( giáo sư, tiến sĩ, cử nhân, ky sư, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, linh mục hoặc tương đương, tướng lĩnh, lãnh đạo quan lại.. hoặc tương đương)
Loại 2: nole có nghề là thủy thủ, hoặc pháo thủ, biết hàng hải, hoặc chiến binh xuất sắc (biết võ nghệ, cưỡi ngựa bắn tên, có sức khỏe)
Loại 3: nole là thợ thủ công hoặc công nhân lành nghề
Loại 4: nole biết khai thác mỏ hoặc nô lệ mang theo gia đình
Loại 5: nole là nữ giới
Loại 6: những nole còn lại
Những người không nằm trong độ tuổi lao động nhưng thuộc diện gia đình của nole nghiễm nhiên được coi là dân tự do. Được hưởng chế độ và phúc lợi vốn có
Nole thuộc nhiều hơn một loại được chọn loại cao nhất.
Điều sáu:
Nole thuộc loại thứ nhất và loại thứ hai được xem là công dân Đại Việt khi biết giao tiếp bằng tiếng Việt hoặc phục vụ đủ năm năm tính từ ngày cấp ghi trên thẻ bài.
Nole thuộc loại thứ ba được tự do khi phục vụ đủ hai năm và biết giao tiếp tiếng Việt hoặc phục vụ đủ năm năm.
Nole thuộc loại thứ tư và thứ năm được tự do khi phục vụ đủ ba năm và biết giao tiếp tiếng việt hoặc đủ năm năm.
Nole loại sáu được tự do khi phục vụ đủ bốn năm và biết giao tiếp bằng tiếng việt hoặc phục vụ đủ năm.
Điều 7: nơi làm việc và nơi ở
Nole loại 1,2 và 3, tùy theo ngành nghề mà được đưa đến nơi làm việc bố trí nơi ở tương ứng.
Nole loại 4 được đưa đến bố trí làm việc và nơi ở cố định tại gần khu mỏ được bố trí làm việc, sao cho vừa gần làng người Việt, vừa gần chỗ làm, tiện quản lý.
Những nole còn lại phục vụ trong các công trình phải di chuyển chỗ ở thường xuyên không cố định.
Dù được tự do hay không, tính từ ngày được cấp thẻ trong 15 năm không được ra khỏi huyện hoặc cấp hành chính tương đương huyện, nơi đang làm việc hoặc nơi đang sinh sống khi chưa có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền nơi đó, nếu bị phát hiện liền bị coi là nole bỏ trốn.
Điều tám:
Nole đang làm việc ở vị trí nào sẽ được trả lương một nửa cho tương ứng vị trí ấy so với dân tự do làm cùng vị trí, được cung cung cấp nơi ăn chốn ở, khám chữa bệnh miễn phí.
Điều chín:
Nole không được tự ý kết hôn, giữa các nole đều bình đẳng, được bảo hộ về tính mạng, giữa các nole không được xâm phạm đến thân thể, tài sản, thân nhân, riêng tư của nhau. Công dân hợp pháp không có quyền xúc phạm đánh đập xâm phạm đến thân thể tài sản gia đình của nole. Nếu vi phạm sẽ bị xử theo pháp luật hiện hành.
Nole xúc phạm đến danh dự thân thể tính mạng và tài sản của công dân hợp pháp cũng theo pháp luật hiện hành dành cho công dân hợp pháp sau đó gấp hai lần mà xử lý.
Nole có quyền tố cáo đến người quản lý và cấp lãnh đạo cao hơn để bảo vệ quyền lợi của mình.
Mỗi hai mươi nole có cùng huyết thống, quê quán, ngôn ngữ, màu da được ưu tiên xếp gần nhau theo thứ tự tăng tiến tạo thành một đội, mỗi đội tự bầu ra lấy một người quản lý nhóm mình, mỗi năm đội được sắp xếp một người quản lý là dân tự do.
Nole sau khi được tự do sẽ được cấp phát nhà ở để sinh sống ổn định lâu dài.
Điều mười:
Đối với nole lười biếng, người trông coi được quyền cắt lương, không cho ăn uống ngày đó, nếu nghỉ quá ba mươi ngày nole bị cấp thẻ bài lại từ đầu, ngày phục vụ trước đó được tính bằng không, cấp thẻ lại quá ba lần được cho là nole quấy rối.
Nole bị mất thẻ sẽ được cấp thẻ bài lại từ đầu.
Đối với nole bỏ trốn, xử tử.
Đối với nole quấy rối, xử tử.
Những quy định trên ngay ở điều thứ nhất nói rõ, trên lãnh thổ Đại Việt chỉ mình hoàng đế mới có quyền có nole, tất cả nole trên Đại Việt đều là sở hữu của hoàng đế, Quang Toản không muốn mở rộng chế độ nole trên cả nước, không muốn người dân có nole, cũng như buôn bán nole, và hắn không hoàn toàn coi việc đang làm là mua bán nole, mà đúng hơn là một dạng nhập cư cưỡng bức, nhằm giải quyết tình trạng thiếu lao động trước mắt,
Hắn cứ nghĩ đến viễn cảnh, trong năm năm, mười năm, hoặc hai mươi năm, tới khi các nhóm nole đầu tiên trở thành dân tự do, rất nhiều dân tộc đến từ nhiều nơi khác nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ, tạo nên sự đa dạng về văn hóa, phong phú về tập quán, lúc đó tình xã hội Đại Việt sẽ thành dạng gì, không biết có tạo nên một môi trường sống cởi mở như Hoa Kỳ ở thế giới kia. Đó chỉ là tưởng tượng của hắn trong lúc rảnh rỗi, còn thực tại vẫn còn nhiều điều cần quan tâm mà trong đó có chuyện, như thế nào để quản lý, làm sao để đảm bảo những điều khoản trên được thực hiện nghiêm chỉnh với đúng tinh thần mà hắn đem ra. Việc này cần đến nhiều thời gian và công sức đúc kết kinh nghiệm qua vô số lần thực tế mới hi vọng từng bước hoàn thiện, phải trông mong vào tương lai, còn trước mắt Quang Toản cho Phan Huy Ích thành lập cục quản lý nole để phân bổ người trông coi và quản lý nhân khẩu, cấp phát thẻ bài, xử lý rắc rối và bảo vệ quyền lợi cho nole.
Tương lai, nhờ có nguồn lao động không ngớt này, Quang Toản thực hiện được những việc hao tốn lao động, đầu tiên là mở rộng khai khoáng mỏ, xây dựng đường sá, cảng biển, làm các công trình thủy lợi, mở rộng sản xuất xi măng sắt thép, củng cố thành trì, nhân công các ngành công nghiệp đang thiếu thốn được lấp đầy, thủy thủ mở rộng, đội ngũ trí thức gia tăng. Tham vọng của Quang Toản nhờ vậy mà gia tăng, hắn cảm giác được đường đi đến thành công có vẻ quang đãng hơn nhiều, vung tay đã không sợ bụi gai bên đường.
Nhưng đó là chuyện của sau này rồi, còn lúc này đây, Hắn phải đương đầu trước thử thách mới, nếu không vượt qua thì khỏi phải nói đến chuyện sau này nữa rồi.
Điều gì cũng có hai mặt của nó, Quang Toản một lần ba phía mở chiến trường, mỗi tháng nuôi ăn thêm vài vạn người, lại được tin thất trận của Võ Văn Dũng, các phú hộ vì đó mà hạn chế bán ra lương thực, thêm việc di dân khai hoang chưa làm ra được hạt gạo nào nhưng tiêu tốn lương thực không hề nhẹ, tuy có khoai lang thay thế nhưng khoai lang nào thay thế được cơm. Lương thực lên giá, tin thất trận ở Diên Khánh báo về, chỉ sau tháng thứ nhất đã lên đến gấp đôi, tháng thứ hai liền tăng gấp bốn, Quang Toản nhất thời lâm vào thế bí chưa biết phải giải quyết như thế nào, đình thần xôn xao, ai nấy loạn cả lên, đứng ngồi không yên, đổ tất cả tội lỗi cho Võ Văn Dũng, sau đó còn ngụ ý nói, ‘do Hoàng Thượng khi không đảo lộn mọi thứ lên làm gì’. Nghe thế Quang Toản biết chẳng thể nào trông cậy vào đám đình thần được chỉ đành thở dài ngao ngán.
Quang Toản kinh nghiệm không đủ, không đánh giá được mức độ quan trọng của lương thực ở thời đại này, như ở thế giới kia, để đánh giá sự ổn định của thị trường người ta dựa vào các chỉ số hối đoái ngoại tệ, giá vàng hay xăng dầu làm chính, còn ở thế giới này, lương thực là điều sống còn quyết định sự tồn tại của một triều đại.
Giá lương thực tăng cao, nguyên nhân đầu tiên chính là từ việc đổi tiền, từ 600 đồng mỗi lượng bạc nay thành 1000 đồng một lượng bạc, đồng tiền mất giá bốn mươi phần trăm, trước khi đổi tiền Quang Toản đã tính toán đến chuyện này, hắn nghĩ, mất giá bốn mươi phần trăm không phải là vấn đề quá lớn, với lại dù cho mất giá tại thời điểm này cũng phải cho đổi tiền, vì các lợi ích mà nó đem lại cho Đại Việt trong tương lai là vô cùng lớn, theo suy tính chỉ chuyện mất giá bốn mươi phần trăm của tiền đồng không đủ để giá lương thực tăng gấp bốn lần sau hai tháng.
Quang Toản lại quên rằng, hạ giá đồng tiền cũng đi kèm với việc giảm đi lợi nhuận của thương nhân nhà Thanh khi buôn bán với Đại Việt, nhất là mặt hàng lương thực, chở chục thuyền lương thực đầy vào Đại Việt ở thời điểm này lợi nhuận không bằng chở một thuyền tơ sợi, khi các các thương buôn người hoa giảm dần việc đưa lương thực vào tiêu thụ cũng trở thành một nguyên nhân khiến lương thực trong nước khan hiếm.
Nguyên nhân chính ở đây là do Quang Toản trong vòng sáu tháng sau tết, đưa vào thị trường 10 triệu lượng tài chính, thông qua việc tăng lương cho binh sỹ và giải tán 10 vạn quân địa phương, làm cho đồng tiền giảm giá mạnh, lạm phát xuất hiện, rồi còn việc cung ứng miễn phí lương thực cho cả triệu di dân đi khai hoang, đẩy tình trạng lương thực trong nước đi vào tình trạng khan hiếm, khiến bộ hộ phải mở ba kho lương ở , Quy Nhơn, Nghệ An, Thăng Long, nhằm cung ứng lương thực cho các tướng sỹ ngoài biên ải, tin tức Võ Văn Dũng thất trận như giọt nước làm tràn ly, khiến các địa chủ hạn chế bán gạo, các thương buôn chỉ mua vào mà hạn chế bán ra, muốn đầu cơ tích trữ đẩy giá tăng cao.
Lần đầu tiên trong đời Quang Toản cảm thấy hận đám gian thương đầu cơ tích trữ như vậy, chỉ hận không thể một mẻ bắt hết, đem ra pháp trường giải quyết một lần cho gọn, sau đó lục soát nhà cửa đem tịch thu hết gia sản. Nói thì vậy nhưng lý trí không cho hắn làm điều đó, hoàn toàn không thể làm, chỉ có thể tự mình nghĩ biện pháp khác để giải quyết, không trông chờ gì vào đám quan lại ở lúc này, liên tiếp những buổi lâm triều là một màn đổ tội, đùn đẩy trách nhiệm, mà nạn nhân chính là Võ Văn Dũng và Vũ Đình Tú.
Rất tiếc, Quang Toản không mở miệng đồng ý, thậm chí nhiều lúc còn bao che biện minh cho hai người ngay giữa triều đình, nên tất cả chỉ dừng lại ở bắt tội, mà không thể làm gì, nhưng hắn mới là người có thu hoạch lớn nhất, lấy được sự cảm kích Võ Văn Dũng và Vũ Đình Tú, sau chuyện này, Dũng, Tú hai người trở thành cánh tay đắc lực của y, tuyệt đối nghe lời, như thiên lôi sai đâu đánh đó.