Nhơn mầng đặng tin nhàn nhẹ tách, tới lều tranh tầm mách sự duyên, mới biết rằng thiên tứ lương duyên, định rể thảo dâu sánh cặp. Tới Chợ Lớn Ái Nhơn bỗng gặp, đám cưới người đang sấp ra đi, thấy xe mui kiếng thiếu gì, xem phụ nữ với nam nhi đi họ.
Già sồn sồn cũng có, gái nhỏ nhỏ thiếu chi, nước vàng vòng dọi mặt phương phi, màu áo chói dung nghi tuấn tú. Trên thì quai tơ nó cụ, áo hàng màu bận đủ mớ ba, tay móng dài đeo ngọc chói lòa, lãnh Bắc Thảo dọi màu ra da-bát. Mang giày thêu cườm cắt, đáng cho phải má hồng; trước thì họ đớn ông, đội những nón lông tuội nhiễu. Ăn mặc thật xem ra phải điệu, áo địa xanh lót chiếu màu hồng, chơn mang giày ăn-phón ma-rông, quần củng-xá Quảng Đông gởi lại. Còn chàng rể đâu mà chẳng thấy?
Hỏi rằng: “Áo rộng xanh ngồi đấy phải không>”
“Phải, bưng qua đèn ngồi với mai dong, còn xe trước là ông trưởng tộc. Ủa! Con chi đó mà để trong củi nhốt, lại nghe kêu ột ột om sòm?”
“À há, heo mà lưng son nhuộm đỏ lòm, hai người xỏ một đòn khiêng củi.”
Nhơn thấy vậy trong lòng bối rối, xét việc mình may rủi thể nào? May sau dầu lưỡng tánh tương giao, làm rực rỡ tốn hao chẳng nệ. Chế sửa bói coi cho phải lễ, đừng làm kỳ miệng thế chẳng kiêng, cuộc hiệp hòa rể thảo với dâu hiền, cầu chúc đặng phỉ nguyền cầm sắc.
Họ đương đi đủ mặt, quan hàm chức sắc thiếu chi, làm sao chẳng biết kiêng vì, để heo củi chen đi với họ. Tục trước vậy đời nầy nên bỏ, vậy mới rằng nghiệm cổ suy kim, đời văn minh tua ráng sức tìm, đừng lấy chỗ tị hiềm tật đố.
Nhơn buông cương giục vó, noi quan lộ ruổi giong, thấy cò bay én liệng trong đồng, nhìn cảnh vật chạnh lòng nhớ bạn. Cuộc đôi lứa tuy chưa quyết đoán, mà ngày đêm những mãn nhớ thương chẳng biết vậy mà trời có xui nêm đạo tào khương, xích thằng có vấn vương chỉ đỏ. Vái bà nguyệt đừng lòng ghét bỏ, xe làm sao cho đó hiệp đăng, gái với trai đẹp phận gối chăn, kẻo mà ngày tháng dạ bằng hoài ái.
Sợ một nỗi đôi đàng vô oan trái, khiến cho bề nhơn ngãi lỡ làn, tôi nhứt nguyện tôi với Anh Cô mà không nên nghĩa đá vàng, nơi chín suối khối tình càng dồn vập. Dương gian dầu rẽ cặp, âm cung nguyền tìm gặp mặt nhau, vậy mới rằng trọn nghĩa thâm giao, kim bạc với tơ đào chẳng phụ.
Đang nghĩ nghị bỗng đà tới chỗ, Nhơn ngừng xe quan lộ bước vào, mụ dì nghe lật đật ra chào, Cô vừa thấy xôn xao tới hỏi. Nhơn mừng tợ long vân gặp hội, thỏa tình như mưa gội hạ thiên; mụ dì liền trà nước mời khuyên, rồi đàm luận sự duyên của trẻ.
Rằng: “Mụ chẳng mong lòng phân rẽ muốn sao cho trẻ sánh duyên, nhưng mà mụ e chữ hàn vi nhơn ngỡi chẳng đặng tuyền, sanh ra việc đảo điên phận gái. Chàng dầu có tình kia tưởng đoái, quyết một lòng vầy ngãi trước mai, khư khư câu giao nghĩa mạt giao tài, khằn khằn chữ duyên hài gia thất.
Keo sơn sau gắn chặt, phước nhà mụ thật nhiều, mụ lẽ nào dứt mối chỉ điều, cho thước với Ô kiều hai ngả. Từ ngày chàng bức lá đề thơ thả theo dòng gởi lời than mụ cũng động lòng, nên kiếm trẻ đề phong gởi lại.
Mời chàng đến phân điều phải trái, coi thử bề ân ái tính sao, chàng mau bày hơn thiệt lẽ nào, cho mụ rõ âm hao tơ tóc. Kẻo mà mụ chưa tường trong đục, để vậy hoài Ngô Thục cách xa, tại nơi chàng định lấy thất gia, nói gì con Anh Cô nó cãi lịnh mẹ cha sao đặng.”
Nhơn nghe nói làm thinh lẳng lặng, muốn hở môi mà nói chẳng ra lời, ngồi hổ ngươi ruột rối bờ bời, ngần ngừ mới kiếm lời phân giải. “Dạ tôi quyết vầy duyên kim cải, một lời đà thệ hải minh san, kể từ khi đá biết tuổi vàng, lòng những ước phụng loan kết cánh.
Tôi mô dám làm điều bất chánh cho thế dèm ngôn hạnh phản nhau, dẫu rằng cho bình địa nổi ba đào, cuộc may rủi lẽ nào chẳng bỏ. Huống chi nay, lịnh trên đã hết lòng chiếu cố, lẽ nào tôi kiếm chỗ từ nan, dẫu rằng cho cực khổ muôn ngàn, tôi cũng ráng vầy đoàn nước cá.”
“Ấy vậy thì chàng đã nhứt ngôn thuyết quá, phải ghi lời vào dạ đừng sai, chàng về rồi cậy kẻ làm mai, qua đây với sui trai một lượt. Chừng giáp mặt bày lời giao ước lễ vật cầu mai trước hiệp hôn, miễn là cho đôi trẻ đặng vuông tròn, mụ chẳng phải bán con mà đòi của.”
Trên đã dành đôi lứa, Nhơn mừng lửa bén rơm, bây giờ đây trời đã huỳnh hôn, mau từ giã rồi bôn trở lại. Nhơn vừa mới đi ra khỏi chái, Anh Cô liền bước trái chơn theo, giả đưa chàng tỏ dạ mến yêu, ràng buộc mối tơ điều cho chặt.
Ái Nhơn xem thấy mặt, ngừa tối trời chụp bắt lấy tay, má giao kề phỉ dạ ái hoài, rồi chàng mới giải bày đôi tiếng: “Hết lo nỗi chơn trời góc biển, vầy một nhà vinh hiển biết bao, thôi thời nàng mau khá trở vào, để ta về trong vài bữa lẽ nào sẽ biết.”
Anh Cô rằng: “Xin chàng tính một đoàn Hồ Việt, chớ dần dà mà thiệt sự dươn, cuộc ở đời mưa gió không chừng, vì có chữ phong vân mạt trắc. Thiếp sợ lúc đôi đàng cách mặt, chàng đắm mê nhan sắc mà quên, hễ chơi trăng ắt phụ lửa đèn, thiệt bấy phận gái hèn mỏi đợi.”
Nhơn nghe nói tấm lòng phơi phới, bèn lần chơn bước tới ôm nàng: “Khuyên bậu đừng buông tiếng thở than, ta nguyện chẳng lỡi đàng nhơn ngỡi. Nàng chớ khá nghi ta là Ngô Khởi, tham quyền không nghĩ tới ái ân, miễn là nàng đừng noi gương vợ Mãi Thần, đâu tới nỗi Tấn Tần cách bức.”
Nhơn bước đi ba lần không dứt, tay chưa lìa đôi mắt vội chan, chi mạnh bằng cái nết hồng nhan, rút khách mạnh hơn là đá nam châm rút sắt!!!
Về tới cửa Nhơn bèn gặp Lát. Lát hỏi: “Xong không cậu?”
“Mầy thiệt là đại ác Lát ôi, may không thôi chút nữa đã rồi còn chi cái lứa đôi mà nói.”
‘Cậu nói chơi sao chớ? Tôi mới gặp một anh thầy bói, tôi có ngồi lại hỏi thử chơi, ổng nói rằng chẳng mốt thì mơi, sao cậu cũng yên nơi yên chỗ.”
“Mi thiệt là thằng dóc tổ, thôi đi, lo mở xe mở cộ cho rồi, dẫn ngựa ra quầng nó một hồi, cho hết đổ mồ hôi sẽ nhốt.”
Nhơn vào nghĩ suy đàng tơ tóc, biết cậy ai lừa lọc mối mang, sách có câu quân tử tạo đoan, ai chẳng gọi tào khang làm trước. Vậy thì sáng ngày ta lần bước, bẩm cùng dưỡng thân ắt được chẳng không, để mặc ngài liệu cậy mai dong, lo chi chẳng vẹn phòng chung gối.
Vừa rựng sáng Nhơn đà thúc hối, bắt kê xe giong ruổi đàng dài, chưa mấy hồi đã thấy tới đây. Nhơn ngừng vó bước ngay vào cửa.
Chú thợ vẽ thấy con mừng rỡ, hỏi chuyện chi hăm hở lạ đường, Nhơn đáp rằng vì việc cang thường, nên lật đật tới chường dưỡng phụ. “Xét trong cuộc nghinh hôn giá thú, thế còn ghi bất khả luận tài, miễn là cho đôi lứa gái trai, phải cuộc duyên hài thì đẹp.
Bấy lâu đã trải mùi huê nguyệt, con thiếu chi trong việc bướm ong, nên con mong lựa mối chỉ hồng, mà kết đạo vợ chồng với thế. Chẳng lẽ ở vậy hoài cho trễ, ngày tháng qua như thể tên bay, nay con đà gặp chỗ trước mai, cho hay rằng thảo thất hàn vi, bề dung ngôn ít chỗ dám bì, đàng công hạnh kém chi cửa các.
Tuy nhà chẳng đủ tiền đủ bạc, mà thật là mình hạt xương mai, con nặng nguyền kết tóc sánh vai, hẹn hò với cô ngày tương lễ, xin dưỡng phụ hết lòng thương trẻ, nhậm lời nầy mượn kẻ ước mai, con dầu nên gia thất duyên hài, ơn dưỡng phụ sánh tày sông biển.
Bấy lâu trẻ hết lòng tìm kiếm, không gặp nơi tài đức kết đôi, nay ai xui thương gái mồ côi, lẽ khi thiên tứ định rồi chẳng sái. Ấy là con vì ngãi, nào có phải vì tiền, miễn là cho tài đức vẹn tuyền, thì đáng mặt thuyền quyên sửa trắp.”
“Con chớ ngại lòng cha nê chấp, trai lớn khôn phải lập thất gia, lẽ nào con ở vậy tới già, không lựa chốn phải mà kết cấu. Nay con muốn tác thành giai ngẫu, thiếu chi nền phú hậu kết duyên, trai anh hùng sánh gái thuyền quyên, mới đẹp phận dâu hiền rể thảo.
Sao con lại tham sắc tốt quên đời cười nhạo, rằng dép đội đầu mão lại tròng chơn, con nhẫn dầu muốn kết lương dươn, để cha lựa cho hơn mới đáng. Thôi con chớ vội rồi sau thán oán, để mặc cha lựa bạn hiền cho, con mựa đừng bảy liệu ba lo, mà trái cuộc duyên Hồ với Việt.”
“Thưa cha con khôn lớn cũng đà trải việc, dễ nào không hiểu biết cuộc đời, chữ lương duyên nên chẳng tại trời, nào có phải lòng người muốn đặng. Niềm chồng vợ vì chưng nghĩa nặng, áo vắn e mặc chẳng đặng dài, chữ nghinh hôn bất khả luận tài, miễn là gái với trai đẹp phận.
Vẫn biết chữ tiền tài là phấn (1), câu nhơn ngãi ấy kim, nhưng mà cuộc phù vân nay nổi mai chìm, lại có chữ thiên kim di đắc. Muốn đẹp phận trai tài gái sắc, thì đừang so sánh bạc với tiền, miễn là cho nết gái vẹn tuyền, thì đành phận vầy duyên cá nước.
Xin dưỡng phụ cậy người mai ước, lễ tương cầu cho ô thước gặp nhau, đừng nê chi kẻ khó người giàu, mà phân áo rẽ bâu tội nghiệp. Nếu lỡ phận con nguyền cả kiếp, chẳng thèm vui sum hiệp với ai, hễ cùng nhau vả tiếng một ngày, ôm cầm lại dứt dây sao phải.
Lời cha nói con không dám cãi, nhưng mà xin lượng cha nghĩ lại con nhờ, tính giùm cho sum hiệp tóc tơ, kẻo lòng trẻ ước mơ đêm trắng.”
“Lòng con quyết lẽ nào cha chẳng, dẫu muôn ngàn cay đắng cũng cam, nực cười thay con tạo khéo vơ quàng, thậm trách bấy xích thằng buộc lãng. Sau dầu có lứa đôi chẳng đáng, con mựa đừng trách lẫn vì ai; để rồi cha cậy mặt làm mai, tương lễ kết duyên hài cho trẻ,”
Bây giờ mới tới phiên Thợ vẽ, sắm định xong lựa kẻ mối mai, chọn ngày thìn trong tháng mười hai, bưng rượu nhạo trầu khay đi nói. Cứ giữ việc làm y theo thói, bỏ trầu cau lễ hỏi dâng liền, định ngày hai mươi bốn sánh duyên, anh hùng với thuyền quyên hiệp cẩn.
Ái Nhơn mới lo bề chưng dựng, người tới lui xem những viên quan, ngoài đèn ly đèn giấy có hàng, trong xích tụi kim tòng hực hỡ. Lục bình cặm trăm hoa đua nở, quả tử chưng nhiều thứ trái cây, quần –bàn thêu song phụng chớp bay, cổ – dổng đúc Kì Lân ngồi giữ.
Liễn cẩn mười một chữ, chưn đèn sáp lăng đôi, mùi hương xông ngao ngát vô hồi, hơi rượu trắng phất phô nực mũi. Lồng căng chấn treo trên xích tụi, bàn vọng thì kiếng giọi bóng hồng, cửa buồng treo màn nhiễu thêu rồng, ván gõ trải chiếu bông dệt phụng.
Gần bên cửa có chưng bàn vọng, cũng tiền-bàn-cổ-dổng như nhau, bên hữu thì hòm ấn với bữu đao, bên tả thấy bộ đồ ngũ sự. Kế lấy đó một bàn lớn dữ, khảm trải trên bông sứ rải cùng, ly xấp hàng rượu đủ thứ dùng, Tô-nê mới để chung quanh đó.
Tả với hữu hai hàng ván gõ, ô Gò –Công đủ bộ rất sang, một ông voi đứng giữa kình càng, chín con gối nằm ngang dựa ngửa. Bộ kỷ cẫn chén trà chung chứa, bình tích đầy chè lựa thứ ngon, quả chi đây mà ngăn hết ngăn còn, dường như thể bon-bon có phải?
Không, ấy là nước của người để đãi, khổ qua cùng củ cải với thơm, mấy ngăn mà ngó thấy sạch trơn, là gừng bí ngon hơn hên ết!
Hai bên vách tương tranh vẽ tuyệt, giá trăm đồng người biết chẳng chê, đờn kìm, tranh, cò, độc đủ nghề, kỳ, thi, tửu ngỏa nguê dạ khách.
Ngoài hàng ba ghế bàn phải cách, đôn để bồn cúc bạch, cúc vàng, đèn khí treo ngay giữa mỗi bàn, trên quạt máy coi sang biết mấy. Dầu cho những bực nào dòm thấy, cũng chịu rằng dọn vậy là xinh, nhóm họ đương thiên hạ dư nghìn; nghĩ tại cái thế tình rất mị.
Thấy nhà giàu thì vị, khó lại thị lại khi; ô hô, phải Ái Nhơn là kẻ hàn vi, không thịt rượu ai đi tới đó!!! Hèn chi lời tục ví tai nghe đã rõ, sang thua giàu nào có sai đâu, cuộc đời hay lấy bạc làm đầu, tiền vi nghĩa là câu sách để, khuyên đồng bang hãy xem thời thế, buôn lấy lời là kế lâu dài, đừng bo-bo thắt miệng túi hoài, nằm mê giấc như say ra khật.
Tới ngày cưới xe hơi đậu chật, Ái Nhơn bưng trang vật với đèn, trên đầu thì bịt cái khăn đen, địa xanh lót kiếng sen làm áo; quần châu – xá mới may tinh hảo, mang giày tàu chơn rảo lên xe, họ gái trai ăn mặc hoa hòe, già thủ thiếp nhỏ khoe màu sắc.
Chuỗi hột vấn tay đeo neo đặt, trên đầu thì trâm giắt nhành rung, má-miến-bầu hạp nhãn vô cùng, thêm son phấn tư dung thêm đượm. Cổ đeo chuyền có con bươm bướm, bâu áo vàng mới nhuộm rất xinh; dây thêu cườm thêm vớ trắng tinh, tay đậm đuột móng inh như sáp.
Bà già cà thảy đều áo cập, gái đương dòng thì sấp mớ ba, ngoài mặc hàng sô-cô-la, trong hường đọt cùng là bông phấn.
Bầy trẻ nhỏ đua chen rập rận, bọn kéo xe ngơ ngẩn đứng nhìn, bên xóm giềng thiên hạ dư nghìn, tựu trước ngõ hàm thinh trơ mắt. Xe rút chạy áo màu phơ thất, ngọn gió lò chất ngất mùi hương. Thoát ngang qua các nẻo các đường, người trong chốn phố phường xem chật.
Tới ruộng thấy mục đồng mừng cười ngất, trầm trồ khen xinh thật là xinh, “bọn ở trai” tất cả cũng đứng nhìn, xầm xì ước phải .. mình .. được .. một? Nói gì mấy tay Công tử bột, dâm tâm thường gặp tốt thì mê, cơ khổ thì thôi, vụt chạy theo sau đánh đeo xe, lấy làm khoái dựa kề đít phấn !!!
Đi tới ngõ máy xe vừa chận, có người ra tiếp dẫn họ dương, nhà Anh Cô nghèo khó mà thương, trên nóc giọi bóng hường sáng hoắc. Phận đơn chiết có ai sắp đặt, hai mẹ con dọn sơ sài che mắt thế gian; chánh giữa nhà cũng vọng một bàn, trên lại có cái trang thờ Phật.
Đệm buồm kéo phía sau làm vách, tượng liễn xem đã rách te tua rồi, dựa bên giường là chỗ vong, trên có trải một đôi chiếu lát. Kế một bàn phía trác có cặp chưn đèn trắc nứt đàn dâng, dưới không treo quần-bàn, lư hương trống khói nhang bỏ vắng. Hai bên ván trải đôi chiếu trắng, gối rơm bày đâu đặng hai ba, quả mức thì thấy những chà là, ngó vào kỷ chén trà thiếu bộ.
Chừng hai họ vừa ngồi yên chỗ, mắt nhìn nhau mà tỏ ý khi, ông mai liền sắm sẵn lễ nghi, xin nạp sính kịp thì kẻo trễ. Dỡ quả ra rồi kể, năm chục đồng dùng để thế heo, đồ nữ trang hiện một đôi neo, với cà rá đeo tay nhận ngọc. Thêm một nhánh trâm rung giắt tóc, với đôi bông nhận hột kim cang, bạc đồng đi đủ hai ngàn, lại với chuỗi vàng bốn lượng.
Kể đủ món rồi bưng vào trướng, cho Anh Cô sửa soạn điểm trang, xong việc rồi sắp đặt cỗ bàn, đãi hai họ đưa nàng xuất giá.
Về tới thấy chật đàng lấp ngả, người tữu coi đông đã nên đông, xe vừa ngừng rước họ vào trong, ngoài pháo nổ đùng đùng như sấm. Trà rượu khuyên mời chẩm hẫm, chuyện trò gởi bẩm êm hòa, bây giờ ra làm lễ ông bà, cùng là lạy mẹ, cha, cô, bác.
Anh Cô thiệt là tay quốc sắc, gái hồng nhan thấy mặt thất kinh, tiếng xầm xì khen tốt khen xinh, quốc sĩ thảy động kinh mắt chói. Tới đây mới nghe lời người nói: “Cậu Ái Nhơn giỏi thiệt phải chơi, chốn phiền ba có thiếu chi nơi, vô sàn dã tìm người cung nguyệt.”
Lễ lạy đà xong việc, Nhơn với Cô đi riết vô phòng, à-há nhập phòng! Vợ chồng mới lên đèn làm lễ, lạy ông tơ bà nguyệt xe săng, đừng khuấy chơi bắt mối vơ quàng, làm đến đỗi xích thằng điên đảo.
Vừa xong lạy Anh Cô ra áo, xuống phấn trù xem ráo việc nhà, từ đờn ông chí những đờn bà, tới con nít cũng là mê mặt. Ai cũng tưởng gái quê dốt đặc, có dè đâu nhan sắc phi thường, việc bếp nồi thông thạo mọi đường, chữ tứ đức chẳng nhường ai cả.
Khuya lại tiệc đãi đằng xong xả, họ đương dâu đều đã ra về, dọn trong ngoài ngăn nắp chỉnh tề, mới vào trướng lo bề hiệp cẩn, chồng vợ bởi xích thằng buộc vấn, câu tề mi cử án hằng ghi, trầu rượu đạm làm lễ tương tri, xin quân tử nghĩ vì chút phận.
Rằng: “Thân bồ liễu yếm mang quần vận, trao má hồng cho đấng anh hùng, nghĩa vợ chồng xin khá rộng dung, chặt lỏng thiếp nhờ cùng lượng cả.”
Anh Cô trỗi mấy lời tao nhã, Ái Nhơn nghe mừng quá đỗi mừng; “Ta vẫn biết phận Các Đằng dựa bóng tùng quân, há chẳng xót chút thân bồ liễu. Nàng mựa chớ ba lo bảy liệu, ở sao cho trọn diệu xướng tùy, ta thệ lòng vàng đá tri tri, trăm năm nguyện gắn ghi vào dạ.”
Lòng quân tử Anh Cô liền tạ, đó rồi …. rồi … giọt … mưa … mây … mới … đánh … đổ … đóa … trà mi (sic) …. Hạch ôi!
Bấy lâu nay ong bướm lấp đàng đi, bây giờ … bây giờ … úi-châu-ôi! … hèn chi! …
Má thằng Lát nói: Lấy chồng thiệt hiểm nguy quá đỗi!!!
Nghĩ cũng tại nơi mình muốn vội, lỡ rồi, … lỡ rồi, … thôi! … nước tới trôn phải lội biết sao? Phải hay … động phòng mà gan ruột lộn nhào, thà mà, mang chuỗi hột lần vào cửa Phật!!!
Kim châm dạ lẽ nào không biết nhức, nhẫn mà cắn răng cho trọn bực Hồng quần, cuộc trăm năm biết bấy nhiêu lần, mà chác giận mua hờn cho phải!
Trách con bướm đã qua rồi còn lại, làm cho nhụy đào thơ giọt chảy cánh bầm; trót năm canh chống mắt ôm cầm, cho thỏa dạ tri âm từ ấy!
Sáng ngày ra cả hai không muốn dậy, mười giờ còn nằm ngáy pho pho, lạ chi điều ngao nọ gặp cò, mà phải nói vòng do cho nhọc. trẻ nhà hận dạ trường muốn khóc, Ái Nhơn phiền trách móc canh thâu, cũng vì tớ mỏi mê trông sáng cho mau, chủ lại khác ước giờ khắc qua lâu cho phỉ. Chừng thức giấc Ái Nhơn toại chí, còn Anh Cô yếm lụy chỉnh khôn, lạ thay; hai chơn nay sao lại mỏi run, đau đớn bấy không cùng dời bước!
Trai mừng đặng Kiều Ô gặp Thước, gái nghĩ rầu vô phước lấy chồng; phải hay vầy trực tiết cô phòng, hơn là chịu đau lòng xót dạ!
Lệ nhập phòng ba ngày đã quá, Anh Cô về thăm má với chồng, nghĩa mới mà coi bộ mặn nồng, mặt hớn hở trong lòng oan hỉ. Trách “Má thằng Lát thiệt là con quỉ, đem điều phi tiếng mị phỉnh ta, lấy chồng vui sướng quá đi mà, dại, mang chuỗi hột áo già cực xác!!!”
Ngày tháng qua như tên thấm thoát, tình vợ chồng mặn lạt biết bao, bữa kia nằm đàm đạo cùng nhau, Nhơn mới hỏi trước sau cho cạn. “Từ buổi đầu đến ngày vầy bạn, tới lui thường chưa hãn sự gia, biết mẹ mà không thấy mặt cha, xin nàng hãy phân qua minh bạch. Vẫn biết, mẹ góa bởi vì cha sớm tách, tình thâm đành phân cách âm dương, chẳng hay buổi thời sơn còn ở tại đường, có dư chức thôn hương cùng chẳng?”
Cô nghe hỏi hàm thinh lẳng lặng, sắc buồn dường như quặng lòng đau, muốn hở môi miệng lại nghẹn ngào, ngần ngừ biết lẽ nào phân giải. Nhơn thấy vợ có hơi ngần ngại mới đem lời trái phải bày ra, rằng: “Đôi ta nghi thất nghi gia, gần còn nệ chi xa mà dấu. Hễ hai họ kết thành giai ngẫu, thì chớ quên xấu bậu xấu qua, chẳng phải tuồng trăng gió gọi là, không biết nể mà phòng sợ.”
Cô nghe thấy lời chàng đã mở, hết ngại ngùng bợ ngợ tiếng phân, đôi ba phen mở miệng lại ngừng. Nhơn hỏi riết mấy lần mới tỏ, rằng “Buổi thiếp lọt lòng chẳng rõ, chừng lớn khôn nào có thấy cha, mẹ cùng con hôm sớm vào ra, dưa muối chịu trải qua ngày tháng. Thiếp cũng ngỡ mẹ góa bụa vì cha quá vãng, lại thêm mắc lo nghèo sớm mãn tối qua, cho nên không hay ngồi đàm luận gần xa, cũng chẳng hỏi mẹ già sự tích. Một bữa nọ bóng hồng vừa trịch, mẹ con ngồi xúm xít trồng rau, thấy hai chim cặp trẻ nhành cao, động tình hỏi trước sau cạn kể.
Rằng: Loại chim chóc còn đủ cha đủ mẹ, phận tôi sao như thế vậy mà? Từ lọt lòng chẳng biết mặt cha, hay là trẻ nước sa vớt đặng?
Mẹ thiếp ngồi gục đầu lẳng lặng, hình như nhắc càng thêm cay đắng nên buồn, thảm thay! Trơ mắt nhìn đôi giọt vội tuôn, ngó mặt thiếp rồi buông tiếng khóc.
“Con ôi! mẹ nghĩ lại con có cha dường như cô độc, vợ có chồng khác thể Vọng phu, ôm đoạn sầu hè mãn qua thu, tin cá có biết đâu mà nhắn. Nhắc đến lúc dạ càng cay đắng, nghĩ nỗi niềm ruột quặn lòng đau, thuở mẹ chưa tuổi chất trên đầu, dung nhan mẹ ai hầu sánh kịp. Nhà chẳng giàu, mẹ hằng thủ thiếp, chất phỉ phong trinh tiết một màu, ngày kia, lỡ bước đường vắng vẻ biết bao, một mình mẹ trước sau không kẻ.
Dè đâu, ngày rủi lấp năm may xui tệ, khiến gặp tay vô lễ ô dâm, hoa thơm kia ong bướm vọc dầm, đành cho phận các lầm ngọc trắng.
Tưởng qua rồi hết hồi cay đắng, nào hay đâu dây vắn tình dài, gây mối sầu cho mẹ thọ thai, ôm bụng chữa tháng ngày bận bịu, điều sĩ tiết mong mang đành chịu, chịu cho mình mất hiếu mất trinh, cực nỗi sợ mẹ cha mang nhục với thế tình, cùng là bị ra giữa tụng đình tra khảo.
Bởi vậy mẹ mới tìm vào Chợ gạo, cát lều tranh nương náu tháng ngày, bỗng tới ngày nhụy nở hoa khai, một mình mẹ không ai chiếu cố”, nói tới đó lụy hồng vội đổ, mẹ khóc rằng cam khổ biết bao, chuyển bụng ngồi nhăm mặt chịu đau, nào ai đến giùm sau đỡ trước, thảm đến đỗi, mụ gần đó mà không người cậy rước, giường cũng không, y dược cũng không, thiếu làm sao cho đến nồi xông, tiền trong túi một đồng chẳng có.
Chừng sổ lòng con la khóc ó, mẹ ngồi nhìn lụy nhỏ chứa chan, trời ghen chi cái phận hồng nhan, đày đọa chịu cơ hàn như thế! Tiêu hột thiếu, thiếu luôn tới nghệ, ra như tuồng gà đẻ khác nào, vậy cũng chưa đàng gọi là đau, như vầy thiệt gan nào chẳng động.
Lâm bồn rồi trong lòng đã trống, ngày không ăn đói bụng biết bao, nghĩ nỗi niềm càng kể càng đau, coi lại gạo trong bầu đã sạch. Run lập cập tay thì lần vách, xuống quơ nồi quơ trách nấu ăn, ăn làm sao cho đặng củ nần, nhưng mà gặp lúc đói khó phân ngon dở.
Lần tới xóm xin cơm ăn đỡ, xóm động tình không nỡ bỏ qua, mẹ rằng: “Phận mẹ dầu hồn xuống diêm la, thương cho trẻ không cha mất mẹ”. Ngày tháng qua như tên rất lẹ, hành khất mà nuôi trẻ biết đi, mẹ lần dò tỉa bắp trồng mì, tay bồng trẻ tay thì xách nước.
Tuy chẳng đủ cũng cho rằng được, mẹ cùng con sau trước cút cuôi, thôi đã đành thân mẹ lôi thôi, cam phận bạc như vôi mà chớ.”
Nhơn nghe thuật mấy hồi sực nhớ, nên muốn tìm ra cớ mới là, nghĩ cho vợ mình quả thiệt không cha, lẽ khi gái ông già gởi của.
Nhơn nghĩ vậy mới hỏi phăng tới nữa: “Vậy chớ mẹ có nói tên người mà mẹ chung vui chửa bậu chăng? Có lời hậu chi trong lúc gió trăng, có trao của gọi rằng tín vật? Người ấy có tỏ phân gốc gác, bây giờ đây có nghe người thất lạc hà phang? Bậu với qua kết nghĩa tào khang, còn chi nữa nghi nan mà dấu. Dầu khó nhọc qua cũng gắng công cùng bậu, tầm kiếm về phụ mẫu đoàn viên.”
Cô nghe qua chiếp miệng tiếp liền: “Mẹ chẳng rõ sự duyên chi cả. Bướm rời hoa rồi phân hai ngả, nút nhụy hồng ong rã đàng đi, không một lời giả nghĩa tương tri, cũng không để vật chi làm dấu. mẹ nào tưởng là câu giai ngẫu, nằm cắn răng dau thấu về đâu, trông cho hết hồi dồi vập chiếc thuyền câu, trông cho mãn lúc hoa sầu nắng hạ. Ấy là mẹ gặp lúc cùng chẳng đã, có cần chi hỏi sạ gia người, dè đâu, chịu mễn mang nên rất hổ ngươi, thân như gà đẻ rồi bươi nuôi trẻ.
Từ ấy nhẫn nay, trống xếp cánh nào lo cơn sanh đẻ, xét lại càng sự thế buồn tanh, cha thiếp là một đấng bộ hành, nào có rõ hà danh hà tánh. Cũng chẳng biết hà quê xa lánh, cũng không hay ấm lạnh dường nao, đặnh như vầy thiếp cảm biết bao, đâu dám chịu công lao phu tướng.
Dầu chàng có hết lòng đoái tưởng, cũng khó toan tìm lượng nhạc gia, đốt ngọn nguồn kiếm ngách sao ra, thôi, thà mà để cho thiếp cam phận rủi mất cha còn mẹ.”
Nghe vợ bày trước sau cạn kể, Nhơn thầm cho như thế khó toan, nhưng mà muốn tận tường hư thiệt bành tàng, chàng mới hỏi thăm nàng cho thấu: “Không tin để cũng không lời di hậu, vậy mà mẹ tháy mặt người có dấu chi chăng? Thấy người còn để tóc bịt khăn, hay là tập theo thói Lang sa đội nón? Gò má người thỏn thỏn, hay là gương mặt tròn tròn, phận đôi ta là điệu rể con, âm thầm để nước non âu hãng.”
“Thưa phu tướng, hoa ngộ bướm quá hồi chạng vạng, khó cho tường hình dạng mặt mày, lại thêm mẹ căm hờn gặp cuộc chẳng may, dường như thể trêu cay ngậm đắng.”
Nhơn nghĩ: “Như vậy thiệt khó mà tìm ra cho đặng, biết làm sao phân trắng với đen, bỏ qua không đành phận nhỏ nhen, bằng muốn hỏi biết đâu quen mà hỏi.”
“Ta chẳng nệ tất công tìm tỏi, nàng khá tua phân nói rõ ràng, hồi tuổi xuân mẹ có nữ trang, đeo trong lúc bên đàng lỡ bước? Khi nàng lớn, mẹ có cho món chi làm dấu trước, hay là mẹ còn đeo mà nàng thấy được rõ không?”
Cô đáp rằng: “Của đáng mấy đồng, mà chàng phải nhọc lòng muốn biết.”
“Không, câu phú quới tợ môn tiền tuyết, dễ đâu ta dốt việc nhà sao, nàng mựa nghi ta muốn bi61m bao, trong gia đạo nghèo giàu đã chán. Ta muốn hỏi tâm tình cho cạn, kẻo lỗi lầm nguyệt rạng khôn soi, bởi e nàng chịu phận thiệt thòi, nào có phải móc moi tầm vít.”
Cô rằng: ‘Của mẹ cho thiếp đeo khít rịt, để lưu truyền dấu tích ngoại tông, cho hay không giá đáng mấy đồng, song của báu thiếp không rời phút.”
Nhơn mừng lòng xin coi thử chút, cho biết trong hay đục một bề, chừng xem ra hai chữ G.C., vùng nói lớn “Hiền thê quả quyết.”
Chuyện thình lình Anh Cô nào biết, tưởng đâu chàng nghị việc ngoại tình, cho nên nàng sợ đã thất thanh, trơ đôi mắt hàm thinh mà ngó. Chàng vui tợ hạng phùng cam võ, nàng ngại ngùng như chim nọ nghi cung.
Ái Nhơn mầng ôm vợ mà hun, rồi bày tỏ khúc trung cho hãn. Nghe nói vậy lòng chưa quyết đoán, ngồi ngẩn ngơ bán tín bán nghi, tỉ như mộng Huỳnh lương thấp thoáng chốn phòng vi, nghĩ như giấc chiêm bao mộng mị. Của vô cớ có chi rằng quí, không phước thì cũng bị họa lây; ai ở đâu lại gởi của nầy, mà chàng nói lạ tai quá vậy?
“Nàng chớ khá đem lòng tin quấy, có đủ bằng mựa lấy làm chơi, như vầy đây thiệt của tìm người, hết trông đợi chim trời cá nước. Như nàng chẳng tin lời ta được, nàng phải mau về rước mẹ qua, giáp mặt rồi nguồn ngọn kể ra, nàng mới biết lời ta thiệt giả.”
Nhơn dứt lời Anh Cô vội vã, dạy thắng xe nhà má bôn ba, rước mẹ già đàm luận tin cha, kẻo từ ấy tha nha thiết xỉ. Mẹ thấy con tấm lòng hoan hỉ, Cô mới bày tự thỉ chí chung, mẹ già nghe mừng rỡ không cùng, vầy đoàn trẻ gia trung xá kíp.
Về tới cửa Nhơn ra nghinh tiếp, rước vào trong trà nước mời khuyên, nghỉ đôi hồi mụ tiếp hỏi liền. Nhơn mới dẫn căn nguyên cạn kể. “Ngày nọ có thơ mời ngu tế, tới gia trang định kế liệu toan, khai phong xem lạ hoắc hai đàng, thêm chưa rõ cơ quan mánh lý.
Người nguyện vậy lẽ nào phụ ý, con gượng lòng cật ký trải sang, đến chừng vào tới của gia trang, thấy một bị trên sàng đầu bạc. Gặp mặt trẻ ngài sa nước mắt, than rằng lâm bịnh ngặt đã lâu, mời trẻ ngồi rồi kể đuôi đầu, rằng nghe tiếng bấy lâu mới thấy.”
“Ừ, con nhắm tuổi tác người chừng mấy, ra làm sao nói lại thử coi.”
“Thưa, tướng mạo ngài phốp pháp hẳn hòi, ngài chịu ở lẻ loi từ ấu. Tuổi ngài đã đầy năm muo8i sáu, mà xem trong gia đạo vắng hoe, cho hay giàu của chất muôn xe, song chẳng có cháu con nối nghiệp, không thú thê cũng không mãi thiếp, cận địa rồi sự nghiệp cho ai, ngài nghe tôi đủ đức đủ tài, nên ngài muốn nói vài lời trối.
Rằng: Buổi nhỏ hàn vi lặn lội, trôi cồn nầy rồi nổi vịnh kia, đã không nhà nương ngụ sớm khuya, năm chí cuối làm thuê làm mướn. Một bữa nọ gặp nơi lộ thượng, gái hồng nhan vô lượng giá vàng, khởi tâm dâm hóc vắng làm ngang, đè nàng xuống vầy đoàn trăng gió. Rồi hai ngả phân tay từ đó, không rõ ràng tên họ là chi, chẳng biết tên quê quán là gì, mà lão cũng bất tri phụ mẫu.
Lão có hỏi mà tại nàng nói dấu, nên lão không hãn thấu sự nàng, biết có một điều tay nàng đeo cà rá bằng vàng, có khắc nổi rõ ràng hai chữ. Cậy ánh diêm rọi tay coi thử, song cũng không hiểu tứ người đề, thấy phân minh hai chữ G. C., nào có biết dấu chi mà định.
Bây giờ lão đã lâm trượng bịnh, khác nào như trái chín trên cây, sự nghiệp nầy bỏ lại cho ai, nên lão mời trí sĩ tới đây mà trối. Một mai lão hồn về chín suối, ráng tìm cho ra mối ra mang, của sớt hai giao lại cho nàng, còn phân nửa lập tràng giáo hóa. Rủi mà tìm không ra tin cá, bố thí cho hết cả gia tài, hoặc giúp người tàn tật ăn mày, hoặc nuôi trẻ chẳng may cô độc.
Đọc lời trối rồi nằm mà khóc, thêm bịnh già trằn trọc không yên, nghĩ đến thân tấc dạ càng phiền, phiền cho phận vô duyên xấu phước. lãnh gia tài mà tìm không được, tưởng duyên người thuở trước đã qua, nào hay trời khiến hiệp một nhà, nào có phải đâu xa cách dặm.”
Mụ nghe dứt ngồi mà thấm gẫm, gẫm lại rồi càng thấm càng đau, vậy cũng rằng duyên nợ buổi đầu, vậy cũng gọi là câu túc trái. Trách người chẳng có lòng tưởng đoái, gây nợ nần rồi lại bỏ đi, chẳng nghĩ câu phong võ bất kỳ, nào xót phận nữ nhi nan hóa. Tình máu mủ mụ mang trong dạ, nỡ theo tuồng bướm bạ vườn oan, mụ lâm bồn chi xiết gian nan, chịu nhiều nỗi cơ hàn thới quá. Chàng lắm lúc an phần sang cả, nay ăn năn thì đã lỡ bề, nghĩ chút tình cũng gọi phu thê, nghe chàng đã về quê mà cảm.
Còn của cải của chàng gởi gấm, mẹ con ta đâu dám chen vào, chữ rằng nhơn phi nghĩa bất giao, của phi nghĩa lẽ nào lại thủ. Thà cam phận thú quê lam lụ, hơn là lãnh của nầy vi phú vô danh, mặt tình con đem hết làm lành, mẹ tự quyết chẳng đành tọa hưởng.
Nhơn nghe nói mười phàn kính trượng, lòng phụ nhơn độ lượng hải hàm, thấy của tiền mà chẳng biết ham, đành vui chữ y tham lam lụ. Mụ mới hỏi qua mồ vô chủ, xin dẫn đàng lên thủ viếng thăm. Nhơn đề huề tới chốn kiếm tầm, dùng tửu thực hương đăng tế mộ.
Xe máy hơi trải sang đường bộ, chưa mấy giờ tới chỗ rồi đây, xem tư bề Nam Bắc Đông Tây, vườn rậm rạp bóng cây che phủ. Chẳng phải chốn non xanh vượn hú, nhưng mà cảnh buồn dường như thú lâm tàng, gió lai rai như khóc như than, nhành xao động xem càng đau dạ, chỗ thì cỏ mọc ngọn đà cao quá, chỗ thì rụng đầy những lá xanh vàng, cảnh đành cho là cảnh vườn oan, loài dây bạ bò ngang vấn dọc.
Một gò đất cỏ xanh đã mọc, dựa đường mòn bên góc hướng tây, dưới chơn thì có mấy gốc cây, trên đầu nước chảy ngay vô đó. Lá khua vang vi hiu hắt gió, chim lẻ đôi tiếng đổ muôn ngàn, nước cuộn giòng thấy đáy trong ngần, cá đua lội sáng trưng đôi mắt.
Mộ bi chữ son bia tạc, đề tên người mạng bạc từ đây, mụ lão ngồi chíp miệng than dài, người chín suối có hay chăng nhé, “Duyên xui gặp, gặp rồi lại rẽ, rẽ hai đàng để kẻ mển mang, trách vì ai gây cuộc trái oan, rồi bỏ đó lỡ làng chút phận.”
Mụ nghĩ lại mụ càng thêm giận, giận ai làm bạc phận bấy lâu, mưới mấy năm chát thảm ôm sầu, năm canh lụn lo âu tấc dạ. Dầu chẳng xét cho rằng vàng đá, cũng nghĩa tình bướm bạ nhành hoa, sao không suy máu mủ cũng là, mà nỡ để cho già luống chịu, nhà nghèo khó món chi cũng thiếu, chốn lạ lùng lúc yếu nhờ ai, ngồi ru con giọt vắn giọt dài, xét lại phận như loài gà mái. Trống đạp rồi bao giờ tưởng đoái, thỏa tâm tình vui gáy ó o, mãi rũ lông bươi kiếm cho no, cù tác đẻ liệu lo lấy phận.
__
Có câu: Tiền tài như phấn thổ, nhơn ngãi tợ thiên kim. Nhiều vị giải nghĩa: tiền tài như bụi, nhơn ngãi như vàng, e có chỗ lầm, theo ý tôi hiểu nghĩa: tiền tài như phân đất, vì đất mà không phân thì đất xấu như người mà không của vậy.
Nhơn ngãi ví ngàn vàng, ở đời mà thiếu nhơn ngãi thì cũng như đất mà thiếu phân, người mà thiếu của khó nên đặng.