Nói về Hà Hương, kể từ ngày sai Trạnh đi với Ó tù ấy chí nhẫn nay, bặt tin nhàn cá, chẳng biết vậy mà Trạnh ra tay có đặng cùng chăng? E khi họa hổ bất thành, đến đỗi cơ mưu dĩ lậu. Bởi vậy Hà Hương ngóng trông mỏi mắt, ngồi đứng không yên, chắt lưỡi dậm chơn, ăn không ngon, nằm không ngủ. Lòng sầu mặt ủ, nhưng mà gượng cười làm khuây nói nói cười cười, nếu mà buồn bực châu mày, sợ e người rõ thấu.
Còn Nghĩa Hữu thì từ ngày Nguyệt Ba bặt tích, tầm kiếm không ra; Nghĩa Hữu bỏ phế việc nhà, theo Hà Hương ràng rịt, đêm ngày đờn địch, trà rượu đắm mê, nào tưởng đến hiền thê, phiêu lưu hà xứ tại.
Bữa ấy Nghĩa Hữu với Hà Hương đang ngồi ăn cơm tối, bỗng thấy chủ Xã bước vô, Hà Hương lật đật chào mời, hỏi chú Xã chuyện chi mà đến. Chú Xã mới nói: ” Có thầy Caid9ang ngồi khách, cho mời Cô có việc cần, vậy thì Cô mau mặt áo dời chơn, kẻo trễ giờ thầy đợi.”
Hà Hương nghe sửng sốt, chắc cũng có việc chi, trong lòng bán tín bán nghi, sợ nỗi Trạnh đi lậu sự. Hà Hương mới buông lời ướm thử: “Chẳng hay hữu sự sường nao? Xin bày tỏ âm hao, đặng tôi mau nối gót.”
Chú Xã nói: “Việc chẳng nên mét thót, Cô đến đó thì tường, thầy tôi ngồi tại công đường, cùng hương chức còn đương đông đủ.”
Hà Hương liền sửa soạn, thay quần đổi áo ra đi, tới nhà hội, thấy vợ họ Đậu đang ngồi, lại có tớ mình đứng đó. Bây giờ mới rõ, đầy tớ nó phản thầy, thôi thôi cơ mưu đã lậu, từ đây, sự nghiệp một ngày tan nát.
Thầy Cai liền nạt: “Hà Hương mi thiệt ác lắm thay, giết Nguyệt thị trong tay, ngày nay khai cho rõ?”
Hà Hương bẩm: “Thầy là cha mẹ nỡ nào ghét bỏ, từ xưa nay tôi có giết ai, kể từ khi cầm sắc xẻ hai, ngày đêm luống cửa gài then đóng.”
“Khuyên mi đừng ong óng, mà phải bị khảo tra, mi âm mưu hãm hại Nguyệt Ba, dụ Nghĩa Hữu tới nhà hiệp mặt, mi chớ lấy vải thưa che mắt, chứng cớ đà tỏ thật đuôi đầu, việc lỡ rồi phúc thủy nan thâu, còn chi nữa mà âu từ chối. Xưa lỡ dại ngày nay chịu tội, ta cũng toan chế lỗi giùm cho, nếu mà mi nói chuyện quanh co, ắt chẳng khỏi tấn tra mang hổ.”
“Thầy chẳng nghĩ có đem chém cổ, việc không mà chịu có hẹp lòng, thầy khảo tra dầu đến mạng vong, tôi cam chịu một bề nào trách.”
“Mi dầu lho6ng đố thách, ta cũng hạch cho ra. Cha chả! Làm quan mà thua trí đờn bà, dường ấy chẳng hổ phận ta lắm bấy? Phó lý, dùi nọc đâu mau lấy, roi trường hãy bày khai, mau căng thẳng Cô Hai, đánh chơi vài chục ngọn.”
Phó lý thấy nàng làm sao mà nước da trắng nõn, tay mỗi ngón móng dài, căng ra để nằm ngay, nhan sắc tày Đắc Kỷ, Quần lãnh sát da xem khoái chí, áo nụ huê mỹ thấy phải lòng, kiềng nghệ chói má hồng, chuỗi vàng thêm duyên thắm, thấy nàng khóc dạ càng cay đắng, nghe nàng than đau thấu về đâu, đứng cầm roi cứ ngó mà lắc đầu, dầu muôn thảm ngàn sầu cũng chịu.
Thầy Cai liền hối biểu, mau tra khảo Hà Hương, Phó lý thấy mà thương, cực lòng đưa tay đánh. Bởi vậy cho nên: Roi xuống không đặng mạnh, sợ e tan ngọc nát ngà. Thầy Cai mới quở la, Phó lý sao tà vị, liền sai anh Cai thị, ra cầm thế lấy roi, đánh thiệt mạnh hẳn hòi, người đứng coi mủi dạ. Chịu sao nổi ngọn roi đau quá, dẫu cho rằng vóc đá cũng tan, huống chi là xương thịt hồng nhan, mà chẳng biết xốn xang gan tấc.
Máu chảy Hà Hương khóc ngất, tuy vậy mà: Lòng đinh chẳng phúc nào rời, dẫu rằng cho vật đổi sao dời, nhứt nguyện chẳng tỏ lời tâm sự, ấy mới thiệt là tay hùng nữ, khảo kẹp hoài cũng cứ kêu oan.
Thầy Cai liền đòi chứng cứ đủ đàng, đem ra giáp mặt nàng mà hỏi: ” Thằng kia, thù oán bởi tại đâu khá nói, những tay nào theo dõi Nguyệt Ba, thường thấy ai hay tới lân la, cùng đem việc gần xa bày biểu? Phần tôi tớ trong nhà phải hiểu, nói cho ngay đừng thiếu đừng thêm, mi cũng đừng lấy chỗ tị hiềm, mà gieo họa ta không dung thứ”.
“Dạ, dạ, dám bẩm phân tự sự, xin bày tỏ ngọn ngành. Lúc chủ tôi nương bóng tùng quân, thì tôi chữa bước chưn vào cửa. Nên những việc cang thường xẻ nữa, cùng là điều lỡ lứa lìa đôi, thật tôi không rõ thấu khúc nôi, nào biết đặng mấy hồi cay đắng. Chừng Cô tôi tách mình ra đặng, mướn tôi về ngày tháng đỡ tay, vào trong nhà chưa đặng mấy ngày, mướn thêm một tớ trai tớ gái, chừng đặng tháng có người Bà ngoại của Cô tôi đến dạy việc nhà. Rằng: Dượng tôi đi cưới Nguyệt Ba, là gái một của nhà Trần Quế.”
“Khoan, mi phân sao như thế? Nghĩa Hữu xưa là rể họ Trần, lỡ đôi rồi cưới gái thằng Thân nào phải gái họ Trần nói quất?”
Hà Hương bẩm: “Đó, xin thầy xét lấy, ngay gian thấy chán chường. Tớ phẩn thầy vu chuyện bất lương, cho chủ chịu tang xương nát thịt. Bộ tịch nó thiệt còn con nít, mới hai mươi ràng rịt vợ chồng, ép con Sáu tôi vầy cuộc bướm ong, tôi đánh đuổi, lòng mong trả oán,”
“Bẩm Cô, việc đã quả tang chánh án, bởi thầy không hẳn quở la. Bà nói với Cô rằng: Lúc ban sơ Trần Quế đẻ Nguyệt Ba, còn Thị Liến sanh ra Hà thị. Bởi vì bà dốc ý, làm theo trí Quách Hòe. Con họ Trần bà bắt đem về, cháu nhà lại ẵm xề qua đổi. Chừng họ Đậu sính nghi cưới hỏi, cũng ngỡ là dòng dõi họ Trần. Dè đâu phận làm dâu giữ chẳng trọn phần, nên biển ái nguồn ân vội lấp.
Họ Đậu mới toan bề nối chấp, cưới Nguyệt Ba sửa tráp nưng khăn. Bà của Cô lo chạy lăng xăng, đem khúc độc tỏ phân Cô hãn. Máu ghen dậy, Cô bỏ nhà chạy hoảng, theo bà về cản đãng Nguyệt Ba, bởi Nguyệt Ba là gái thật thà, chẳng dám cãi lịnh cha mẹ dạy. Oán để bụng Cô quày trở lại, thù ghi xương nan giải lòng cừu, sai Trạnh qua thiết kế lập mưu, cụ đặng Hữu oán vưu trả đặng, bởi Nghĩa Hữu là tay háo thắng, gặp hường nhan mắt chẳng ngó ngơ, kể từ Cô sai Trạnh đem thơ, Nghĩa Hữu đọc ngẩn ngơ hồn phách, ngỡ đâu thiệt là duyên Kim Thạch, nên bôn ba nhẹ tách đường đê, gặp nhau rồi như bướm ngộ huê, nào tưởng đến hiền thê trông đợi.
Chừng Nguyệt Ba tháng ngày gần tới, tính vô chùa khấn vái phật trời, cầu xin cho mẫu tử thảnh thơi, lễ vật nguyện tức thời hỉ cúng, cũng là tại Dượng tôi tin bũng, đem việc nhà tỏ với Cô tôi, cơ hội chờ nay đã tới rồi, Cô tôi quyết đắp bồi cho phỉ. Liền kêu Trạnh ra sau phụ nhĩ, Trạnh nghe qua thầm ý gặt đầu, chẳng rõ Cô sai Trạnh đi đâu, xin the62y gạn ít câu thì biết.”
Thầy Cai nghe thằng đày tớ khai như vậy, liền hỏi tiếp: ” Vậy chớ Hà Hương sai Trạnh đi mấy ngày mới trở về?”
“Bẩm Trạnh đi trên bảy bữa mới về; chẳng những một mình Trạnh mà thôi, Cô tôi cũng có sai thủ hạ đi trước rồi mới là sai tới Trạnh.”
” Vậy chớ thủ hạ ấy là ai?”
“Bẩm tôi không biết tên, vì chúng nó là quân oan đàng chi địa, thấy Cô tôi một mình, nhà thường ngày chứa cờ bạc, nên chúng nó lai vãng kiếm ăn. Khi Cô tôi sai chúng nó đi, thì thấy chúng nó thay xiêm đổi áo, mình mặc đồ màu dà, áo vạt bò, quần ngang đầu gối, đội nón trủm, giả hình khách ghe bầu; chẳng biết là đi đâu, song đi cũng đã lâu mới trở lại.”
Vợ Đậu Nghĩa Sơn nghe mấy lời, liền đứng dậy bẩm rằng: ” Nếu vậy thì nhà tôi trúng kế Hà Hương, nên Nguyệt thị làm ương như thế. Vả chăng ngày vợ chồng tôi bàn luận thuê thuyền cho tôi đi cúng chùa, thì có ba tên khách viễn phang, ăn mặc in như bạn ghe bầu vào cửa xin ăn, than rằng thả câu bị bão. Thầy cũng rõ tánh vợ chồng tôi hay độ người làm nghĩa, nghe nói động lòng, hối trẻ cho cơm nước vừa xong, ở nhà tôi mới hỏi thăm nghề biển giả. Ba Cậu bày tỏ nghề nghiệp chèo chống thiệt hay, bởi sẵn có việc cần mà lại thiếu tay, mới cầm ba Cậu ở lợi đặng mướn đi với Nguyệt thị.
Chẳng dè ghe đi càng ngày càng bặt, lái bạn cũng vắng hình, nay nghe thằng nớ tỏ tình, mới biết rằng mình trúng kế. Vậy xin thầy lấy công bình làm trọng, tra Hà Hương cho rõ ngọn nghành, kẻo nó ỷ tài lanh, âm mưu kế giết người như vậy.”
Thầy Cai nghe có lý, ngồi thấm gẫm gặt đầu; ” Hà Hương, mi khá mau bày tỏ đuôi đầu, kẻo nhọc ta tra khảo.”
Hà Hương bẩm:”Xin thầy chớ nghe lời hồ mị, mà ra oai thiệt phận gái lành, dễ nào thầy không rõ, nói bớt phải thêm chanh, nói hành thì thêm tỏi. Từ ngày vợ chồng tôi mà xa nhau, về Chợ Giữa mướn nhà mà ở, ngày những đêm cửa đóng then gài, trước sau nhờ tớ gái tớ trai, nào có chứa bạc bài chi cả. Dầu có vậy không đủ cho chú Xã, bắt đặng bài đánh vả rớt răng, có cùng chăng chú Xã biết rõ ràng, xin thầy hỏi thì tàng hắc bạch.
Còn như viêc nó khai rằng tôi sai du côn giả làm thương khách, du côn nào tôi có biết ở mô, lại thêm phép làng nghiêm đâu dung loại côn đồ, hễ chú Xã mà thấy liền bắt vô đánh đuổi. Xin thầy hỏi chú Xã thì tường mọi nỗi, chẳng phải tôi là gái phi thường.”
Tớ rằng: “Đừng, thầy đừng, chú Xã với Hà Hương, ăn một mâm, nằm một giường cả tháng (sic ..)”
Chú Xã nghe sợ oản, mặt đã biến sắc chàm, thằng nhỏ thiệt già hàm, ai nói cho lại miệng!
Thầy Cai mới nói: ” Hà Hương, mi hãy đừng nhiều chuyện, mà phải bị khảo tra, dòi trong xương lòi ra, còn chi mà chối cải.”
Nói rồi liền khiến căng Hà Hương ra mà tẩn, đánh thôi rách da xẻ thịt, máu chảy dầm dề, Hà Hương thiệt là gan, cắn răng cam chịu một bề, dẫu thác chẳng hề thú thiệt. Thầy Cai tính hết phang tra khảo, chẳng lẽ làm thinh cầm cọng lâu gày; mới biểu chức việc lấy khai, rồi bắt Mụ Lưu và Thị Liến, giải ngay ra Biện lý.
Khi quan Biện lý coi khai báo đành rành, liền kêu Hà Hương bước tới an ủi biểu khai thật mọi đàng. Hà Hường cứ việc kêu oan, quan Biện lý mới biểu giam nội vụ. Đặng có giao qua quan Bồi thẩm, hầu tra vấn cho ra, tiên cáo trở về nhà, có lịnh tòa đòi sẽ tới.
Nói về Nguyệt Ba với Ó và Đạo bị giam tại ngục, hơn hai mươi ngày, mà chẳng thấy quan đòi hỏi tới. Ngày kia có hội, quan Phủ liền bẩm với quan Án và quan Tuần, vụ sát nhơn nầy vẫn hai đàng tiên bị đều là người lục tỉnh, vậy xin cho nhà Sứ hay liệu lẽ nào cho biết. Phải chi người Bình Thuận, thì tôi có phép vấn tra, ngặt là dân thuộc địa Lang Sa, nên phải bẩm ra minh bạch.
Quan Phủ bẩm rồi, quan Án và quan Tuần vũ liền bẩm lại nhà Sứ tra xét. Bữa sau, dẫn nội vụ đến quan Khâm sứ liền hỏi tên họ quê quán mỗi người, rồi đánh dây thép tới quan Biện lý Bến Tre mà do lại. Quan Biện lý đặng điện tín, có tên Nguyệt Ba, liền cho đòi thầy Cai ra lập tức. Thầy Cai nghe lịnh quan Biện lý đòi, lật đật bắt ngựa dông liền, từ Bảo Thành ra chợ Bến Tre, chưa đầy nửa giờ đã tới.
Quan Biện lý mới nói có vụ sát nhơn tại tỉnh Bình Thuận, quan Khâm sứ đánh dây thép vô hỏi Nguyệt Ba và tên Đạo ở tổng Bảo Thành (Chợ giữa), chẳng biết có phải Nguyệt Ba là dâu họ Đậu Nghĩa Sơn chăng? Còn Đạo nầy là Đạo nào, thầy mau về cật vấn. Nội buổi chiều nầy thầy ra đây bẩm lại, đặng cho ta liệu định thể nào.
Thầy Cai dạ, dạ, chạy nhào, về Chợ Giữa hỏi âm hao cho rõ. Thầy Cai khiến Trùm nổi mõ, chức việc làng lớn nhỏ đương trường.
Thầy Cai nói: “Ngày nay vụ Hà Hương, dạ sắt không dời, cho hay muôn sự tại trời, trường đồ mới biết lời ngựa chạy.
Thầy Cai nói rồi liền dạy đòi vợ chồng Đậu Nghĩa Sơn đến hỏi: “Nguyệt Ba là dâu nhà, vợ của Đậu Nghĩa Hữu tôi đã rõ, còn tên Đạo có phải là người nhà của hai vợ chồng chăng?”
Đậu Nghĩa Sơn liền đáp: “Bẩm, nhà tôi có hai tên đày tớ trai ở với tôi cũng đã lâu, một đứa tên Hồ, một đứa tên Đạo; nhơn lúc nhà sanh biến, vợ chồng tôi và con tôi mãn lo tìm kiếm Nguyệt Ba; thế hai đứa ni như bồ câu, thấy vậy ngỡ là nhà tôi hết thóc nên bay xa, rủ nhau trốn mất, từ ấy đến nay bặt tích.”
Thầy Cai nghe liền gặt đầu mà rằng: ” Quan Khâm sứ tỉnh Bình Thuận gởi điện tín hỏi thăm quan Biện lý, tên Đạo với Nguyệt Ba, theo lời hỏi ấy ta đoán chắc rằng cả hai đều mắc nạn tại tỉnh ấy, vậy để ta vào bẩm lại cho quan Biện lý rõ rằng: Nguyệt Ba là dâu, tên Đạo là tới nhà họ Đậu, đặng coi quan Biện lý tính thể nào? Thế ta cũng phải xin đem Nguyệt Ba và Đạo về mà tra vấn vụ Hà Hương, nếu chẳng vậy khó bề tìm mối. Thôi, hai vợ chồng an tâm trở lại, Nguyệt Ba còn chẳng mất đi đâu.”
Vợ chồng họ Đậu nghe nói mừng lòng, mừng trở lại chơn đi không kịp bước. Khi vợ chồng họ Đậu từ giả ra về, thầy Cai liền thắng ngựa gác yên, chạy riết tới phòng Biện lý. Thầy Cai mới bẩm đầu đuôi minh bạch, quan Biện lý nghe, cầm viết thảo liền, sai chú Cai đem tới điện phòng, trả lời lại cho quan Khâm sứ.
Rằng: “Nguyệt Ba và Đạo vốn người tổng Bảo Thành, hạt Bến Tre, nhơn vì còn vụ đại sự tại đây, tra vấn chưa ra vỉ thiếu mặt Nguyệt Ba với Đạo. Nếu Nguyệt Ba và Đạo bị bắt tại Bình Thuận, xin ông cho giải nội vụ đến cho ta, và giấy tờ minh bạch; tra vấn xong rồi, ta sẽ giải trả lại cho ông chẳng muộn.”
Chú Cai xách dây thép ra đi; quan Biện lý liền nói với thầy Cai rằng: “Thôi, thầy trở về, ta đã trả lời cho quan Khâm sứ xin giải nội vụ đến cho ta; chừng Đạo với Nguyệt Ba tới đây rồi, ta sẽ đòi thầy đến.” Thầy Cai dạ, dạ, lui ra.
Nói về Nghĩa Hữu, từ ngày chú Xã đến nhà đòi Hà Hương hầu việc, từ ấy chí nhẫn nay, Nghĩa Hữu nghe rằng Hà Hương bị giam cầm tại ngục; lại hay rằng vợ mình là Nguyệt thị hãy còn mắc nạn xa đàng; nữa thì sợ nữa thì mầng, buồn vui chưa thấu đặng. Vui là vui cho Nguyệt thị tưởng đã đất người gởi xác, may lại còn sống trở lại nhà; buồn là buồn cho Hà Hương trong như ngọc trắng như ngà, rủi chút cách xa hai ngả.
Hữu cũng muốn cứu Hà Hương khỏi nạn, nhưng mà e chấu khó chống đặng xe; lại giận Hà Hương sao có độc tâm, hại Nguyệt thị mới ra đến đỗi. Nghĩ lại trách mình chắc lỗi, cũng vì bắt cá hai tay, nay ham cả rổ đổ cả mâm, Nguyệt thị mất Hà Hương cũng mất.
Đêm chí sáng lòng sầu chất ngất, nhớ Hà Hương lòng dật ủ ê; ngày nay đà cạn nghĩa phu thê, bao thuở đặng dựa kề má phấn. Cũng bởi ân oán mới hư danh phận, nói ra càng thêm giận Hà Hương, chẳng lẽ cơn hiểm nghèo mình chẳng nghĩ đạo tào khương, vậy thì tội nghiệp Hà Hương cực khổ. Tiếng đời nói một ngày cũng là duyên là nợ, huống chi bấy lâu nay hiệp nghĩa vợ chồng, dầu cho rằng kẻ Bắc người Đông, há đi phụ chỉ hồng sao phải, còn như mình tưởng đoái, thương để lòng, biết giải đặng chăng?
Còn Nguyệt Ba cũng đạo gối chăng, vì mắc nạn há rằng phụ bạc, tuy nói vậy chớ chữ trinh nàng có tạc? Hay là phụ tình ta nên thoát tay ta; còn đương nghĩ nghị gần xa, bỗng thấy trẻ nhà bước tới.
Khi Nghĩa Hữu vào nhà trong, vợ chồng họ Đậu kêu con mà rằng: “Con có thấy chăng? Cũng vì con nên Nguyệt Ba lâ hại, trôi cồn nầy, tấp bãi kia, dải nắng dầm sương, mang mển có phiền cùng chăng? Phải chi con mà biết nghe lời cha mẹ, tối dạy sớm khuyên, con với Hà Hương chia gánh cang thường rồi, quấy dứt bỏ, phải chẳng lìa, thì có đâu ra đến đỗi. Con lại không, cưới Nguyệt Ba về cho con, vừa thọ thai ít tháng, con bỏ mà oan du, ngày theo cờ bạc tối dựa thanh lâu, con nghe tiếng quyển tiếng đờn, bởi vậy hương xuống đất con hãy còn theo mà vớt. Nghề đàng điếmđỡ nâng dịu ngọt, dầu cho con không say vì nết cũng chết vì tình, con ngỡ nó thương nên tỏ hết sự gia đình, dè đâu lòng sâu độc cướp duyên hại mạng. Nay việc đã tới quan minh đoán, thôi cũng đành bất oán mạt vưu; hễ âm mưu chẳng khỏi lầm mưu, lập quỉ kế rữa cừu âu trúng kế.
Nay con cũng đã biết: Nguyệt Ba thật là con Trần Quế, chẳng phải là con đẻ thằng Thân. Như việc ni: cũng tại nơi Mụ Lưu bày chước quỉ mưu thần, Hà Hương mới đặng gần họ Đậu. Chữ thiên võng sơ nhi bất lậu, lại có câu thiên địa tuần hườn, làm phải thì gặp phải trả ơn, tích ác ắt lâm cơn oạn họa. Nay tan án tuy chưa thành mà đã quả, con ăn năn tay cũng đã nhúng chàm.
Tại bởi con: nên chồng trông Bắc vợ đợi Nam, mùi cay đắng trót năm rồi mà chưa ngớt. Mẹ khuyên con từ đây bỏ bớt, cuộc đắm mê nhan sắc Hà Hương, phải lo cho phu phụ nhứt trường. Đặng vui chữ cang thường cùng Nguyệt thị. Hà Hương đã thân lâm ư dủ lý, cơn mựa đừng rủn chí mà hư, đừng tới lui thăm viến thơ từ, phải để vậy cho quan trừ tàn bạo. Nếu con cãi lời cha mạ bảo, mà mong lòng mặc áo khỏi đầu, mẹ quyết tình cắt ruột chẳng đau, liền như trẻ ngơi nhao không đẻ.”
Nghĩa Hữu nghe mấy lời cạn kể, ngồi cúi đầu không lẽ chối từ. Chừng lui ra trực nhớ gánh tương tư, dứt khó nổi, đa mang e khó nổi. Tối Nghĩa Hữu vào phòng. Một mình trằn trọc, nệm chích gối nghiêng. Nhớ Hà Hương nghĩ hận lão thiên, thương Nguyệt thị thâm phiền tơ đỏ, cũng tại mình bưng cả rổ, nên đến đều rủi đổ cả mâm, một đêm nằm tình nặng gánh trăm năm, lẽ nào lại ôm cầm rồi dứt.
Đã biết mẹ dạy vậy, bao đành lòng bức tức, Hà Hương đang khổ cực chốn thiên lao, dầu một ngày kết nghĩa thâm giao, lời thề có trên cao chứng chếu. Bên thì tình, một bên thì hiếu, giữ trọn tình e hiếu phải vong, giữ hiếu tròn tình nọ phụ lòng, biết sao đặng chữ đồng ghi tạc. Phận Hà Hương khác nào dây các, đeo theo nhờ bóng mát tùng quân, nay dầu nàng lạc bước sẩy chưng, mình trở mặt xoay lưng sao phải.
Cha với mẹ dầu không tưởng đoái, mình giữ cho trọn ngãi với nàng, vậy mới là phải đạo tào khang, vậy mới gọi phụng loan kết cánh. Hà Hương dẫu làm điều bất hạnh, máu ghen xui cải chánh qui tà, nàng âm mưu hãm hại Nguyệt Ba, vì chi dốc cùng ta một mối, nay chẳng đặng nương phòng chung gối, lại phải còn thọ tội ngục hình, mẹ dạy khuyên ngơ mắt chớ nhìn, nhưng mà nghĩ đến chút tình không nỡ.”
Giận vì bởi: Âm kế độc nên duyên ta lầm lỡ, làm cho Nguyệt Ba mắc mưu sầu chồng vợ mới cách phân, xét đến câu biển ái nguồn ân, tức, song phải cắn răng ráng chịu.
Như cớ sự ni: Nước đến trôn nghĩ âu khó liệu, liệu hà phang trọn hiếu trọn tình, ngồi nghĩ lui xét tới một mình, một mình dễ hai tình e chẳng dễ! Ruộng dâu xưa nay đà hóa bể, cuộc tang thương không thể sửa yên, thương vì phận giận vì duyên, duyên phận khéo đảo điên chi lắm bấy. Nay thấy vậy nỡ nào đành để vậy, để vậy hoài ai cứu lấy tình nhân?
Khốn thay! Dẫu cho ai chước quỉ mưu thần, gặp nhằm lu1cgian truân khó thoát, tục đời ví: Có gánh phải toan có vác, lẽ nào mình ngơ mắt cho đành, kiếm đôi tâm bỏ túi để dành, mướn thầy kiện tài danh cải án. May nàng đặng rảnh thân khỏi nạn, ra kiếm nơi vầy bạn nương thân, miễn trọn niềm phu hpu5 chi ân, chẳng cần cuộc ngỡi nhân chi nữa.
Thương Nguyệt Ba: Thuở lạc bước còn mang bụng chửa, chẳng hay nàng nương dựa vào đâu, phận đói no muôn thảm ngàn sầu, cơn ương yếu ai hầu nưng đỡ. Chẳng biết vậy mà: Khi sanh đẻ có ai thương mà tư trợ, giúp cho nàng lẻ ở bề ăn, cũng vì ta nên lỡ gối chăn, tại Hà thị xích thằng lơi mối. Thương con trẻ hãy còn bé tuổi, cảm thân nàng yếu đuối khó toan.
Nay nàng đà đầu cáo giữa quan, Hà Hương mắc rạt ràng chưa mãn. Chờ đủ mặt quan trên minh đoán, để âm thầm âu hãn lẽ ngay, Nguyệt Ba dầu nếm mật nằm gai, Hà Hương khó kêu nài cho đặng.
Bề ta mắc hai vai gánh nặng, không lẽ ra che nắng đỡ sương, nếu ta lo gỡ nạn cho Hà Hương, e lỗi đạo cang thường cùng Nguyệt thị. Nếu để vậy lỗi niềm chung thỉ, Hà Hương phiền rằng chẳng nghĩ trước sau, bây giờ đây biết tính lẽ nào, nín cũng khó nói vào e bất tiện. Chi bằng, để êm vậy tùy cơ ứng biến, lo tiền thuê thầy kiện cứu nàng; thành chẳng thành tại lẽ Tao Đoan, miễn giữ trọn nghĩa vàng đừng phụ.
Tội nghiệp Nghĩa Hữu: Nhớ Nguyệt thị đêm nằm chẳng ngủ, nghĩ khi đôi đủ, dựa màn loan trướng phụng giá mấy mươi; nói mà biếng cười, tủi lúc lẻ loi, nệm chích gối nghiêng sầu muôn đoạn. Tại Hà thị nên nàng lâm nạn, bởi vì đâu xui bạn chịu lao đao; bây giờ đây bình địa nổi ba đào, đừng trách lẫn ruộng dâu sao hóa bể. Nỗi sầu thảm xiết bao mà kể, cuộc đời bi thương chưa dễ nguôi tình, chờ lịnh quan tạo chúc cầu minh, cho thấu nỗi bất bình, oan ức.
Như phận ta bây chừ: Lửa nóng mặt, lụy tuông đà chẳng dứt, dầu sôi dạ, đôi giọt nhỏ song song; số long đong con tạo có ưng lòng, bề cực khổ xích thằng hay chăng nhẽ? Cơm rồi dọn ngồi ăn không thấy trẻ. Mắt láo liên kiếm bậu đặng chia nhau.
Tối vào phòng dạ héo dàu dàu, không gặp bậu mặt giao, trò chuyện thấp cao đôi tiếng. Hay đâu nỗi vợ chơn trời góc biển, cách mấy vời mà tưởng bằng tấc gang, muốn tìm vàng chi nệ quan sang, nơi bãi lệ dặm ngàn, cực khổ xông sương bao quản. Miễn là gặp mặt nàng cho hãn, hỏi vậy chớ vì ai xui nên bãng lãng, gánh chung tình đành vội chia hai.
Nực cười thay con tạo khéo lá lay, người đâu vắng chỗ nằm rày còn đó. Nỗi niềm ai cạn tỏ; sầu thảm đó thấu chăng? Biết no nao ngư thủy hiệp nhứt tràng, biết bao thuở phụng loan vầy một ngả.