Gương ô thấm thoát, trời đã xế chiều, ngọn kim phong phưởng phất gió hiu hiu, như giục khác thừa lương ngoạn cảnh.
Đông Sơ mới sửa sang xiêm áo, rồi đi dạo xem cảnh vật sơn xuyên, chợt thấy bên mái tây hiên, đồ sộ một tòa thành quách, bèn lần lần đi tới, thì rõ ràng một cảnh hoa viên, chỗ thì liễu dựng tàng cao, chỗ lại cây khoe bóng mát. Kìa, đỏng đảnh mấy nhánh dương xao xác, nhúng tới đưa lui, dường như nó thấy khách tha hương, mà múa men mừng rỡ. Nọ lăng liếu mấy con hoàng anh thỏ thẻ, nó đáp lại bay qua, dường như thấy khách phương xa, nhảy ra mà chào hỏi.
Đó rồi ngó lại phía sau, thấy một vòng thành rộng rãi, nguồn suối bọc quanh, dòng nước trong xanh, nó chảy nghe rỉ rả. Thật là một cảnh tình thanh lịch, xem dường cửa động đào nguyên. Ngoài thì có vách phấn tường vôi, xây bọc một vòng viện lạc.
Đông Sơ dừng chân đứng ngó một hồi, thấy phía trước xa xa, có một tòa nhà rất nguy nga đẹp đẽ; rồi đi sang qua phía tả, thì thấy một hòn giả sơn chớn chở, ở giữa hồ sen; gộp đá do de, nước khe trong vẻo. Thật là:
Hoa cỏ mĩa mai vườn thượng huyễn,
Nước non mường tượng cảnh bồng lai.
Gần đó có một tòa nhỏ nhỏ, ở dựa mé tường, trước có trồng một bụi hải đường, với vài đóa phù dung, nó đương sánh sắc so tài, mà khoe màu rực rỡ. Đông Sơ bèn mon men bước tới, thấy có một tấm biển sơn đen, đề ba chữ “Quan Âm Các” rõ ràng, nét vàng chói ra rành rạnh.
Trong lúc đương đứng xem hoa nhắm cảnh, phút đà nhựt dĩ trầm tây, kế trống đền quân hơi vẳng vẳng mái đông thành, tiếng khoan nhặt đã nghe thùng thùng rắc rắc, cái tiếng ấy nó thỉnh thoảng bên tai, dường như kêu khách du phương mà thôi thúc rằng: “Trăng đà lộ bóng, trời đà tối rồi, sao chưa vội trở gót hài, mà còn ngẩn ngơ ở đó?”. Nhưng mà Đông Sơ mãn mê theo cái cảnh kỳ hoa dị thảo, thinh lịch u nhàn nầy mà đứng sững trơ trơ, dựa nơi góc tường kia, như tuồng ai đem hồ keo chi mà dán vào đó vậy.
Lúc ấy trăng thu tỏ rõ, bóng dọi tường thành, Đông Sơ ngó quanh thấy cái cửa nhỏ, thì xô cửa bước vô, rồi đi lần tới Quan Âm Các, đương đứng nhắm trước xem sau, bỗng thấy một vị tiểu thơ ở trong tòa nhà lớn phía trên bước ra, rồi xăm xăm đi tới, và có một đứa thể nữ bưng hương đăng trà quả theo sau. Đông Sơ vội vã ẩn theo bóng cây, rồi bước vào bụi phù dung mà núp.
Khi cô ấy và thể nữ đi thẳng tới Quan Âm Các, rồi mở cửa bước vô. Đông Sơ lén lén bước theo, thì thấy thể nữ sửa soạn thắp hương, còn tiểu thơ thì đứng trước tòa Quan Âm, khấn vái lâm râm rồi nghiêng mình cúi lạy.
Cơn ấy đèn khêu tỏ rõ, trăng dọi sáng lòa, thì rõ ràng là một người tuyệt sắc giai nhân, mình mặc một vóc áo cẩm nhung, đầu dắt một nhành trâm kim tước, tay đeo chiếc vòng kim xuyến, nhận ngọc kim cang, cổ mang sợi chuyền liên hoàn; xen hàng cẩm thạch, tóc mây dợn trán, dường như tiên nữ xuống phàm gian, má phấn ửng hồng, mường tượng phù dung khoe sắc lịch; dung nghi yểu điệu, cốt cách dịu dàng. Đẹp thay một vẻ hồng nhan, đáng mặt hương trời sắc nước, thật là:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Phong nghi sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Khi Đông Sơ đương núp dựa vách mà coi, thì thấy phía bên kia, có một bóng đen đương leo qua vách tường nhảy vô, rồi lại đứng trước Quan Âm Các, tay cầm một ngọn đoản đao, mặt mày dữ tợn, mắt ngó lườm lườm tiểu thơ.
Đông Sơ biết kia là một đứa hung đồ, chẳng phải người lương thiện. Kế đó tiểu thơ trong các bước ra, thằng cường bạo kia nhảy xốc lại, giơ dao vừa muốn đâm tiểu thơ, thì Đông Sơ đã nhảy tới lẹ như nháy mắt, gạt cánh tay thằng ấy một cái rất mạnh, làm cho cây đoản đao kia văng lên trên không, rồi rớt trước mé thềm, tiếng nghe cang cãng.
Thằng khốn ấy bị Đông Sơ đánh bồi thêm một cái nữa, té nhào xuống đất, nằm mà bất tỉnh. Lúc đó tiểu thơ và thể nữ hoảng kinh, chạy trở vào đứng núp trong miễu.
Đông Sơ lật đật lượm cây đao lên cầm nơi tay, rồi bước vô cúi đầu chào tiểu thơ và nói cách lễ nghi tề chỉnh rằng: “Xin cô chớ sợ, cây đao của tên khốn nạn nầy đã vào tay tôi đây, không sao phòng ngại”.
Tiểu thơ nghe nói thì đã bồi tâm đinh tĩnh, rồi chậm rãi bước ra, thì thấy thằng ấy đã tỉnh hồn, và lồm cồm ngồi dậy.
Đông Sơ bèn nói với tiểu thơ rằng: “Xin cô hãy bước ra hỏi nó vì cớ nào dám vào đây mà làm điều ám hại như vây.”
Song sự dữ tợn thình lình ấy đã làm cho tiểu thơ kinh tâm táng đởm, mà ngơ ngẩn sững sờ. Nhưng tiểu thơ tuy là phận quần xoa bồ liễu, song cũng có chí khí liệt nữ thuyền quyên, nên đổi sợ làm thường, đổi kinh làm tĩnh, rồi bước tới cách dạn dĩ nghiêm trang, mà hỏi rằng:
” Ớ tên khốn nạn kia, ta vẫn làm người khuê môn bất xuất, ở nơi tử các hồng lâu, ta chẳng hề làm điều chi khắc bạc hành hà, cũng chẳng hề làm một chi gây thù kết hận, cũng chẳng làm điều chi mích lòng đến ngươi và xúc phạm đến ai hết cả, sao mi chẳng biết lấy sự lễ nghi khuôn phép, mà đối đãi với một bực thục nữ thuyền quyên, mi lại mua chác những sự tàn bạo hung hăng, mà bán lương tâm cho ma quỷ? Mi chẳng kiên pháp luật, chẳng kể ngục hình, và dám đến đây thình lình, mà làm điều ám hại như thế?”
Tên kia nghe hỏi thì lồm cồm đứng dậy rồi nói: “Tôi là một đứa nghèo khổ cơ hàn, ăn chẳng bữa nào no, mặc không bữa nào ấm, lấy đình miễu làm nhà, lấy đất gạch làm chiếu, lấy rừng bụi làm xóm giềng, lấy rau cỏ trái cây làm cơm gạo. Cái sự đói khát ấy làm cho tôi hết biết lễ nghi pháp luật, hết biết liêm sĩ phải chăng, nó làm cho tôi giận đất ghét trời, ghét tạo hóa chẳng công bình, để cho kẻ giàu có kia cửa tía lầu son, để cho kẻ hào hộ kia của tiền dư giả, miếng ngon ăn chẳng hết, gấm nhiễu mặt ê hề, cho đến cổ, chuỗi tay vòng, bông xoàn xuyến ngọc, còn kẻ thì bụng đói xếp ve như chằng hiu, cơm chẳng đủ ăn, làm cho máu hết thịt tiêu sườn lồi mắt lộ như khu chén; làm cho hết biết sự vui sướng trong cõi nhơn gian, hết biết sự sống của người dương thế. Sự đói khát khốn nạn nầy nó giục tôi đêm nay đến mà giết cô, lấy của cải dư giả nó nhõng nhảnh ràng buộc nơi cánh tay cô; đặng đem về mà đỡ đói ít ngày, rồi chết cũng cam tâm với thằng tạo hóa.”
Tiểu thơ nghe tên ấy nói bấy nhiêu lời, thì nét mặt có sắc thảm sầu, và thở ra một cái, rồi làm thinh chẳng nói.
Đông Sơ thấy vậy thì bước tới kêu tên ấy mà nói rằng: “Ớ tên kia, mi nói rằng mi oán trách tạo hóa chẳng công bình, để cho mi đói khát cơ hàn, nên mi phải giết người mà lấy của phải chăng? Song những điều mi thán oán nãy giờ, không hề làm cho động lòng một ai mà thương xót mi đặng. Vì những lời mi thán oán đó là lời của một đứa táng tận lương tâm; của một đứa điên cuồng dại dột, vì cái lương tâm và linh hồn mi nay đã bị một con quỷ tàn bạo nó hãm hiếp buộc ràng, nó bị sự sai khiến mi làm những điều nhẫn tâm hại lý, khốn nạn dữ dằn, nên mi đem gươm đao mà làm một trò chơi với máu men xác thịt của người vô can; mà mi không ăn năn hối ngộ.
Ta nói cho mi biết, những sự giàu có của cải kia, là bởi trong cái giọt nước mồ hôi mà nhĩ ra, ở trong trí não tài năng của người, tính lo cực khổ mới có đặng. Nào, có phải cái của ấy tạo hóa đem đến mà cho riêng một người nào đâu? Sao mi gọi rằng tạo hóa chẳng công bình mà hờn trời giận đất?
Vả lại mọi người trong thế gian nầy, đều có quyền tự do thong thả, mà hưởng dùng sự phú quí tiền tài của mình, chẳng hề một ai đặng dòm hành xúc phạm. Nếu lấy những điền tàn bạo hung gian mà xúc phạm cướp đoạt của người, thì phép luật kia sẽ can dự vào, ngục hình kia nó ở trước mắt, gươm đao kia, nó kề bên cổ, trăn trói kia ở nơi chân tay, cái địa ngục kia ở sờ sờ nơi cõi nhơn gian, nào phải nơi miền địa phủ.
Mi hãy chống con mắt cho lớn mà coi, những đứa đoạt tài, hại mạng người ta, không bao giời khỏi vào nơi cái địa ngục ở thế gian nầy đặng.
Nhưng ta tưởng cặp mắt của mi, ngày nay đã bị con quỷ tàng bạo kia nó che lấp, dầu có mắt cũng như đui, có xác mà không hồn là ngươi bây giờ đó!
Ớ tên cường bạo kia ôi! Ta ứa nước mắt mà khóc dùm cho cái linh hồn mi đã chết rồi, cái xác thịt tuy còn chạy chạy đi đi trong cõi thế gian nầy, song cái lương tâm đã mất, duy còn một hơi thoi thóp đó mà thôi. Nếu mi chẳng biết cải ác tùng lương, khử tà qui chánh, thì cây đao phép luật nó sẽ kề nơi cổ mi, mà làm cho mi đầu một nơi mình một ngả.
Ớ tên khốn nạn kia ôi! Nhưng ta chẳng nỡ để cho mi mang những điều lỗi lầm tội ác ấy, vậy ta khuyên ngươi phải sử động cái tâm thần mi lên cho mạnh mẽ. kêu rủ mấy cái gân cốt huyết mạch mi, đặng xúm lại mà xua đổi con quỷ tàn bạo kia, nó ở trong trái tim mi, nó đã cám dỗ xúi giục mi bấy lâu nay, làm cho mi ra một đứa ác nhơn, nửa sống nửa chết. Cái nghề leo tường khoét vách, cái nghề đón ngả chặn đường ấy có tốt lành chi, mà mi đeo đuổi tập luyện.
Ớ tên kia ôi! Vậy ta xin khuyên ngươi một lời chót nầy nữa; là ngươi hãy mau mau cải ác tùng lương, khử tà qui chánh, đặng lo mà làm ăn công nghệ, lo mà buôn bán sanh nhai, lo giúp đỡ đồng bào mà cạnh tranh quyền lợi; làm sao cho ra một người ích nước lợi nhà, mà đứng được với võ trụ san hà, cho khỏi mang tiếng nhục nhơ nòi giống.”
Tên kia gục đầu nghe biện chiếc một hồi, rất rõ ràng sáng hoạch, dường như cái lưỡi Đông Sơ đã thành ra một ngọn dao bén kia, đem mà châm chít trong gan ruột tâm thần, rất đau đớn nhức nhối hơn là dao thiệt đâm vào xác thịt. Những lời ấy rỗng rỗng rãng rãng ở trong chót lưỡi Đông Sơ tuôn ra, như một ngọn thủy triều kia nó đương cuộn cuộn chảy tới, làm cho tên ấy phải thình lòng kính phục, rồi ngước mặt ngó lại Đông Sơ mà đáp rằng: “Những lời quan nhơn phân trần răn bảo tôi đó, ví như tôi đương mê mẩn trong một giấc ngủ kia, bỗng nhiên nghe một tiếng sấm sét nổ bên tai, làm cho tôi giựt mình mà kinh tỉnh, và như một ánh sáng kia rọi vào hang kín, làm cho bao nhiêu những sự tối tăm mờ mệt đều tan mất, mà ngó thấy một cảnh thanh thiên; một gương bạch nhựt hiển hiện ra trước mắt.
Bấy lâu tôi cũng như một đứa mắc chứng mê tâm, nay gặp nhằm thuốc hay uống vào, làm cho tôi tâm thần đều trở ra tráng kiện. Nếu tôi không gặp quan nhơn ngày nay thì tôi tưởng từ đây sắp sau, tôi sẽ còn mang nhiều điều tội lỗi.
Vậy tôi xin thệ một lời giữa đây; tôi sẽ cải ác, tùng lương, khử tà qui chánh.”
Tiểu thơ thấy tên ấy đã hồi tâm tỉnh ngộ, thì bước ra rồi nói rằng: “Ớ tên kia! Nay mi đã ăn năn tội lỗi của mi mà cải quá tự tân, thì ta cũng rộng lòng dung thứ. Vậy ta khuyên mi phải nhớ những lời của quan nhơn đây, cũng như một kinh sám hối, để mà siêu độ cái linh hồn mi cho khỏi vòng tội lỗi. Và mi phải nhớ rằng: cái đao mi đem tới mà ám hại ta ngày nay đây, nếu mi không chừa cái nghiệp tàn bạo ấy đi, thì ngày kia nó sẽ trở lại mà giết mi một cách rất ghê gớm.”
Nói rồi thò tay vào áo lấy ra 10 lượng bạc trao cho tên ấy mà dặn rằng: “Mi hãy lấy bạc nầy về lo làm ăn đặng mà nuôi dưỡng cái linh hồn mi cho ra một người tánh tình lương thiện.”
Tên kia thò tay lấy bạc rồi cúi đầu cám ơn mà đi. Đó rồi tiểu thơ day lại nói với Đông Sơ rằng: “Quan nhơn ngày nay cứu tôi khỏi tay cường bạo ấy, thì ơn đó tôi sẽ tạc dạ ghi xương, dẫu ngàn năm cũng không quên ơn tri ngộ, và nếu quan nhơn vui lòng thì cho tôi biết quí danh và quí xứ.”
Đông Sơ nghe nói thì phới phở mừng thầm, liền lấy cái danh thiếp của mình trao cho tiểu thơ và nói: “Nếu tiểu thơ có lòng hạ cố, thì tôi xin gạn tỏ một lời …”
Nói tới đây thì kế một con thể nữ ngoài cửa bước vô, chạy lại thưa với tiểu thơ rằng: “Ông đòi cô vào dạy chuyện.”
Tiểu thơ nghe cha là Binh bộ thượng thơ đòi, thì từ giã Đông Sơ rồi lật đật đi cùng thể nữ. Còn Đông Sơ thì ghé mắt bước theo một hồi rồi cũng vội vã bước ra. Bỗng thấy một cái khăn lụa rớt dựa mé thềm, liền lượm lên xem; thấy trong khăn có thêu một nhánh bông mẫu đơn rất tốt, một bên chéo khăn lại thêu 3 chữ “Bạch Thu Hà” hãy còn thoảng thoảng hương trầm, mùi thơm phất mũi. Đông Sơ biết là khăn của tiểu thơ, liền bỏ vào túi rồi trở về thơ viện.
Khi Đông Sơ trở về đến nhà, lấy khăn ra xem, xăm soi và hun hít cái mùi hương trầm còn thơm tho phưởng phất.
Đoạn một mình ngồi với ngọn đèn leo lét trong thơ phòng mà thầm thương trộm nghĩ rằng: thật cái buổi chiều nay là một buổi rất may mắn kỳ phùng, khiến cho mình đặng thi ơn mọn với tiểu thơ, mà làm cho tiểu thơ mang ơn chác nghĩa và làm cho mình đặng dịp mà nhìn xem cái vẻ sắc nước hương trời của một người giai nhơn thục nữ, và cái khăn nầy thế cũng một mai mối chi cho mình chăng? Nếu chẳng vậy, thì dễ đâu thinh không mà lượm đặng cái vật của người trong khuê các? Thế thì cũng một cái nhơn duyên chi đây, nên mới khiến cho mình gặp điều kỳ ngộ như vậy! Nhưng mà không biết tiểu thơ người có rõ thấu những điều tâm sự của mình đây chăng, nàng có biết cho mình trong lúc canh khuya đêm vắng, ngồi với một ngọn đèn leo lét nầy mà tư tưởng đó chăng?
Ớ cái khăn kia ôi! Mi phải là một mai nhơn nguyệt lão, để kết chỉ xe tơ mà dệt một mối ân tình của người hồng nhan với kiết sĩ đó chăng?
Ớ cái bông mẫu đơn trong khăn nầy ôi! Có phải mi khoe cái vóc thiên hương đẹp đẽ, mà trêu ngươi cho kẻ mến người thương đó chăng? Hay là mi khoe cái màu quốc sắc tốt tươi, mà làm cho người mê kẻ đắm đó chăng?
Đông Sơ những mãn thầm thương trộm nhớ mà trằn trọc canh tràng, rồi dựa gối mơ màng, thì lẩn bẩn đã canh tàn đêm lụn.
Kế có thơ đồng bước vô kêu rằng: “Thưa quan nhơn, trời đã gần sáng, xin quan nhơn tỉnh giấc đặng sắm sửa vào trường.”
Đông Sơ thức dậy sắm sửa áo khăn, và trà nước xong rồi, liền đi vào trường ứng thí.
(Nguyên khoa nầy là khoa tuyển một Tấn sĩ, nên phải văn võ toàn tài, thì mới đặng vào ứng thí, một bữa khảo thí trường văn, một bữa khảo thí trường võ. Vì vậy nên Đông Sơ phải vào trường văn trước rồi ngày mai sẽ qua diễn trường thí võ.)