Khi ra gần tới thạch đình, bỗng thấy một người trong hang đá nhảy ra, tay cầm một cây đoản đao xốc tới. Đông Sơ liền rút gươm nhảy lại muốn đâm tên kia, kế Nhứt Lang la lên một tiếng, biểu tránh, thì tên ấy liền tránh ra một bên, rồi Nhứt Lang day lại cười và nói với Đông Sơ rằng: đó là tên bộ hạ của tôi ở đây canh giữ cái thạch đình nầy. Trong lúc đêm khuya, thấy quan nhơn cùng tôi ngỡ là bọn tế lác gian nhơn, nên nhảy ra mà ngăn cản.
Đông Sơ nghe rồi đút gươm vào vỏ và lấy tay vỗ vai Nhứt Lang và nói: thật tôi khá khen cho túc hạ là người trí dũng song toàn, tôi xem trong sơn động nầy chỗ nào cũng đều có trí người quan phòng nghiêm nhặt cả thảy.
Đó rồi đi với Nhứt Lang thẳng tới thạch đình, thấy cửa đóng then gài, còn ba bề thì sóng bủa ào ào, xem lại thì thạch đình ở trên hòn núi rất cao, như một cù lao thọt ra ngoài biển vậy.
Nhứt Lang bèn bước lại gõ cửa và kêu, nhưng trong thạch đình lẳng lặng im lìm, chẳng thấy một ai mở cửa. Nhứt lang lấy làm lạ, liền xô cửa bước vô với Đông Sơ, thì thấy một người gái hơ hãi chạy ra Đông Sơ ngó lại thì rõ ràng là thể nữ Xuân Đào, còn Bạch Thu Hà ở đâu chẳng thấy.
Xuân Đào thấy Đông Sơ mừng quýnh, lật đật chạy vô đặng kêu Thu Hà. Vừa bước vô phía trong, thì vùng la lên một tiếng bài hãi.
Đông Sơ và Nhứt Lang lật đật chạy vô, thì thấy nét mặt Xuân Đào đã tái xanh thất sắc, đứng dớn da1co ngó quanh, tuồng như một đứa đã mất vía điên hồn, nói chi chẳng đặng.
Đông Sơ kêu Xuân Đào và hỏi: cô mi là Thu Hà ở đâu chẳng thấy, mi hãy tỉnh lại nói nghe.
Xuân Đào ngó lơ láo xung quanh rồi nói: cô tôi hồi nãy ở đây, mà bây giờ chẳng biết cớ sao đâu mất.
Đông Sơ và Nhứt Lang nghe nói thất kinh, liền bước ra kêu tên quân canh và hỏi: Mi đêm nay có thấy tiểu thơ Bạch Thu Hà đi đâu không?
Tên kia nói: Hôm giờ tôi canh giữ ở đây, chẳng thấy cô nương ra vào chi hết.
Nhứt Lang và Đông Sơ nghe rồi liền trở vô thạch đình lại cửa sổ dòm coi xung quanh, chỉ thấy phía dưới thạch đình đá dựng đứng sững như vách tường, và sóng biển nhào lộn lăn xăn, bỏ vòi trắng giã, ngó lại cửa sổ thì thấy trên ngạch còn để một đôi nữ hài của Thu Hà đó thôi, chớ chẳng thấy chi nữa.
Hai người đương đứng sững ngó nhau, bỗng nghe Xuân Đào la lên rằng: cái gì đây, cái gì đây.
Đông Sơ và Nhứt Lang lật đật lại coi, thì một cái thơ để nằm trên ghế, có đề ngoài bao “Hoàng nhị cô khai khán”. Nhứt Lang liền lấy thơ giở xem, thì trong thơ nói như vầy:
“Kính cùng Quới cô đặng rõ, từ khi tôi nhờ ơn quới cô cứu mạng, đem về để ở thạch đình, và quới cô lấy sự tình nghĩa chị em , mà đãi tôi như đồng bào cốt nhục, và nhiều phen khuyên bảo, muốn tôi gá nghĩa cùng Nhứt lang, nên kiếm lời thân thiết mà buộc ràng, nếu nghịch ý thì e sanh điều chích mích. Tôi nghĩ cho phận tôi là kẻ cô thân phiêu bạc lại mang ơn tri ngộ nặng nề. Vì vậy tôi chẳng biết tính sao, nên phải chiều lòng mà chịu đỡ. Chẳng dè ngày nay hôn kỳ rấp tới, nên tôi xin tỏ thiệt cùng Cô nương, tôi đã đem việc trăm năm duyên phận mà hứa trước cùng Đông Sơ là người tôi đã có thệ ước nặng lời. Dẫu cho thế nào, cũng chẳng dám dời lòng đổi dạ. Vậy nay tôi chỉ còn một thế là tôi nhứt nguyện mượn chốn biển sâu vực thẳm nầy, mà gởi thân lưu lạc cho rồi, thà cam một thác với tình, đặng chờ kiếp khác luân hồi tôi sẽ đền ơn cô nương tri ngộ.
Bạch Thu Hà tự ký”
Hai người xem thơ rồi sửng sốt ngó nhau, thì thấy vẻ u sầu dào dào tràn r nét mặt, kẻ thì thương người tình xưa nghĩa cũ, xiết bao ruột héo gan xào, kẻ thì trộm trách thầm than, bởi em mình ép buộc nhơn duyên, làm cho người phải trầm thân tự tử.
Đó rồi Nhứt Lang day lại nói với Đông Sơ rằng: “Việc nầy bởi em tôi muốn ràng buộc một dây túc đế, đặng cho chị em khắng khít thân tình, ấy là muốn tính khéo tính khôn, chẳng dè đổ dồn lại vụng, nay rủi thay việc ra nông nỗi, làm cho quan nhơn mất một người nghĩa trọng tình thâm, và làm cho tôi phải mang một tiếng đoạt lý cường hôn rất nhục nhơ cho danh giá. Nói tới đây kế thấy Hoàng nhị cô ngoài cửa xơn xao bước vô, bộ coi hơ hãi.
Nhứt Lang thấy thì nổi giận, trợn mắt lườm lườm, rồi kêu Nhị cô và nói: Nhị cô, ai biểu mi thài lai đem lời mai mối, mà ép cuộc nhơn duyên, làm cho Thu Hà ngày nay phải liều mình mà tự tử như vậy? thì mi liệu làm sao? Nói rồi lấy thơ quăng ngay trước mặt Nhị cô, và mặt đỏ phừng phừng sắc giận.
Nhị cô lấy thơ xem rồi, day lại trả lời cách tỉnh tề sách hoạch rằng:
“Thưa quan nhơn và anh, việc nầy bởi tôi thấy người hiền lương dung hạnh, và ngỡ là chưa nơi gá nghĩa tình duyên, nên bấy lâu đem lòng trộm dấu thầm yêu, ý muốn buộc một dây tình thân nghĩa thiết. Vì vậy tôi mới đem lời ràng buộc và khuyên người gá nghĩa Tấn tần, trước là tình chị em sớm tối đặng gần, sau là anh tôi cũng được thành cuộc lương duyên giai ngẫu.
Nếu lấy theo lẽ tình ngay lý vậy, mà cho rằng tôi ép duyên, thì tội ấy tôi cũng đành. Nhưng lấy theo công lý mà suy, thì tôi đã thi ân cứu mạng trong cơn gặp gỡ giữa rừng; đến lúc về ở thạch đình, tình chị em tôi cũng đãi dường ruột thịt, vậy chẳng những tôi là người thành tâm thiệt ý, lấy điều phương tiện giúp người, mà rõ ràng tôi thiệt là người ơn, muốn đây đó một nhà sum hiệp; nếu nói rằng tại tôi ràng buộc, là bởi Thu hà chẳng chịu tỏ thiệt tình duyên, nên tôi chẳng rõ căn nguyên, mới mượn thế nài hoa ép liễu.
Chi như việc Thu Hà liều thân tự tử, là tại nơi người muốn cho trọn nghĩa với tình, nên chẳng chịu tâm sự tỏ bày, mà vội vã tự tầm đoản kiến, chớ chi nàng bày ngay việc trước, thì lẽ đâu tôi còn dám ép buộc tình sau, tôi nghĩ cho cũng phận thơ đào; ép thì ép mỡ nỡ nào ép duyên, nay chẳng ma mà xảy ra cơ hội, người đã mất rồi, dầu hẹp suy mà đổ lỗi cho tôi, thì cũng chẳng ích gì đến việc.”
Nhị cô nói rồi, đứng liếc mắt ngó Đông Sơ, dường như có ý chờ coi Đông Sơ liệu định lẽ nào cho biết.
Còn Đông Sơ thì thấy một gái hồng nhan yểu điệu, nết na ăn nói dịu dàng, đứng một bên mình mà thỏ thẻ những tiếng khéo lời khôn, giọng nói như đờn khảy to nhỏ bên tai. nghe rất thanh bai tao nhã, làm cho một đứng trượng phu khẳng khái, đương gặp một cảnh ngộ rất nên thê thảm như vầy, thế thì cũng là: đau lòng tử biệt sanh ly, nửa thương tình cũ nửa vì giọng khôn.
Đông Sơ khi nghe bấy nhiêu lời rồi, thì chẳng biết tính sao, đứng đó mà ngơ ngẩn tâm thần, rồi cũng phải lần lần hồn tiêu khí đảm, kế đó day lại nói với Nhị cô rằng: “Việc nầy cũng bởi tại tôi vô duyên bạc phước, nên khiến cho chẳng đặng gặp gỡ vợ hiền, ấy cũng vì nơi mạng vận đảo điên, chớ cô nương có can chi phòng ngại”. Nói rồi thì thấy trời vừa rựng sáng, Đông Sơ liền từ giã Nhứt Lang và Nhị cô, rồi dắt tên bộ hạ và Xuân Đào trở về lữ quán.
Hoàng nhị cô thấy Đông Sơ thật một người phong tư tuấn dật, tướng mạo đường hoàng, thì đứng sững và ghé mắt ngó theo, rồi cũng ao ước mà thầm thương trộm mến.