Đây tôi xin nhắc lại chuyện tiểu thơ Bạch Thu hà, từ khi từ hôn tỵ thú, nửa đêm tạm kế thoát thân, bèn mướn một chiếc thuyền sắp đặt sãn sàng, chờ tối lại tiểu thơ với thể nữ Xuân Đào dắt nhau xuống thuyền trốn đi, tính qua nhà dì là Mã thị ở Hải Ninh mà trú ngụ. Chẳng dè gặp tên chủ thuyền là một tay giang hồ bợm bải, và vợ nó cũng một người ác phụ cường hồ, ngoài môi thì giả dạng thiệt thà, mà trong ruột lại hầm hầm chước quỷ. Nó thấy tiểu thơ là con nhà đại gia vọng tộc, yếu đuối phận gái hường nhan, một tớ một thầy mướn thuyền mà đi vào Hải Ninh là chỗ đường sá xa xui, thiên san vạn thủy, thế thì trong lưng bạc vàng châu báu chắc nhiều, vì vậy hai vợ chồng tên chủ thuyền ngày đêm xầm xĩ, nức nỏm mừng thầm, chỉ lo thiết kế toan mưu, chờ dịp sẽ ra tay thủ đoạn, nên khi gặp Đông Sơ tại bến đò, tiểu thơ biểu đình thuyền, thì hai vợ chồng tên ấy làm lãng chẳng nghe, e tiểu thơ thoát khỏi, thì mất mối hàng to, nên kiếm chước nói rằng: Chỗ đó có bọn cường đồ, hay giả dối gạt người mà đoạt tài hại mạng, nên chẳng chịu đình thuyến, cứ việc trương buồm chạy mãi.
Tiểu thơ trong lúc tâm thần rối loạn, nghe nói thì bán tín bán nghi, dẫu cho muốn cản trở điều chi, nhưng xem lại hai vóc liễu yếu đào thơ, thì có thế lực gì mà tranh cùng bọn võ phu cường bạo ấy cho đặng.
Chúng nó mượn một cánh buồm tự do thong thả, mà nương theo ngọn gió Hồng ngộ thuận phong, thì mặc tình khi xuống vịnh ra khơi, tự ý chốn sông sâu nước chảy, dẫu cho nó vậy trời khuấy nước, dọc ngang theo thói vẫy vùng, mà làm một vua Hỗn thế ma vương, nơi chốn giang hồ đạo lộ, thì cũng chẳng ai làm chi hắn đặng. Vì vậy nên tiểu thơ phải chịu hàm thinh thúc thủ, mà đánh liều nhắm mắt đưa chơn, thảm thay cho một gái hồng nhan, thoãn mãn ngày qua đêm lại, chỉ bị một sự kinh tâm khổ não, cứ theo vấn vít nơi lòng, khắc lụn canh tàn, chỉ thấy một lưới sầu bi phủ ngoài sắc mặt.
Bữa nọ thuyền ra khỏi cửa, thì chỉ thấy nước trời lai láng, ngày đêm gió nạt sóng gầm, lượn thì xốc tới, lượn thì nhào ra, dường như thấy cái sắc yểu điệu thuyền quyên, thì rủ nhau lướt tới, ngả ngớn leo trèo theo hai bên be thuyền, mà lấp ló dòm coi cái vẻ khuynh thành quốc sắc. Còn tiểu thơ với Xuân Đào thuở nay là gái khuê môn bất xuất, chưa từng lưu lạc giang hồ, nay ra giữa chốn vạn trận phong đào, thấy cái mạng sống còn gởi trên mặt nước vài phân, thì chẳng biết bao nhiêu kinh tâm táng đởm. Cái khổ tâm của tiểu thơ lúc nầy nói không cùng, kể không xiết, lớp thì buồn việc gia đình lộn xộn, lớp thì sầu việc duyên nợ đảo điên, đoạn thì sợ sông biển hiểm nguy, đoạn thì lo nỗi bọn cường đồ mong lòng hãm hại, mà toan mưu sát mạng đoạt tài, vì vậy nên, sầu đong càng khắc càng đầy, bền lòng xoắn xít nỗi nầy nỗi kia.
Bữa nọ tên chủ thuyền đương đứng cầm bánh sau lái ghe, day mắt ngó ngay vào hướng Tây, thấy mù mù một lằng cây xanh, giăng theo mé biển, nháp nhán liền với chơn mây, thì kêu vợ chỉ mà nói: chúng ta đã tới địa phận tỉnh Quảng Yên. Vợ nói: Vậy thì lúc nầy trời êm biển lặng sao chưa thừa dịp mà ra tay cho rồi, đặng phóng sanh 2 con cá chạch cho rãnh, còn đợi chừng nào?
Tên kia nghe vợ nói thì mỉm cười mà rằng: nó đã vào tay Ngưu ma vương với mụ la sát nầy rồi, dẫu cho Tề thiên đại thánh cũng chẳng thoát khỏi tay mình, huống chi hai con cá chạch nầy, muốn phóng sanh chừng nào cũng được.
Nói rồi buông tay bánh bước lại đứng trước mặt tiểu thơ, bộ tướng dữ dằn, mắt ngó lườm lườm và nói: “Hai người có biết ta là vua giang hồ đạo lộ, thì quì xuống mà nghe ta phán một lời cho mà nhờ phần phước.”
Tiểu thơi và thể nữ thấy tên ấy bộ tướng hung hăng thì thất kinh, rồi kiếm điều năn nỉ mà nói: Xin ân nhân lấy lòng quảng đại mà đoái thương chút phận nhược chất liễu bồ, thân nầy ngày nay như cá trên thớt, thịt đầu dao, dầu tha giết thế nào tôi cũng chẳng dám nghịch lời trái ý. Nhưng mà tôi xin người mở lượng hải hà mà cho tôi đi tới nơi, về tới chốn, thì cái ân đức của người tôi chạm dạ ghi xương, và tôi hứa cùng người, dầu bao nhiêu tôi cũng ơn đền nghĩa trả.
Tên cường bạo nghe nói thì ngước mặt cười hà, hà, rồi ngó tiểu thơ cách nghiêm nghị và nói: Ta có một lời nầy nói cho ngươi biết là: cái gia tài trong lưng ngươi phải giao hết cho ta, thì ta để dành cái mạng sống của ngươi, còn ở thế gian; Bằng không thì ta cho ngươi xuống đáy biển trầm luân nầy đặng theo hầu Long vương cùng Hà bá. Nói rồi hô lên một tiếng, thì mụ La sát với mấy tên kia nhảy lại lục túi giở rương, nào là bạc vàng châu báu, nào là quần áo nữ trang, đều tóm lấy sạch trơn, và trút hết vào túi gian tham cường bạo của bọn nó. Đó rồi bẻ bánh quày thuyền nhắm giang rừng mà chạy tới.
Khi thuyền vô tới bãi, thì mụ La sát nói với tiểu thơ rằng: ta thấy ngươi là phận gái đơn cô, giang hồ lưu lạc, nên ta làm phước đưa ngươi vào đây, và ta chừa cho ngươi một đường ssanh lộ nơi mé rừng nầy, mặc ý ngươi muốn đi đâu thì đi cho thong thả. Vậy ngươi hãy mau xuống khỏi thuyền, đặng bọn ta trở lái.
Nói rồi xốc lại ôm tiểu thơ và Xuân Đào bỏ nơi bãi biển, rồi quày thuyền mà chạy.
Tiểu thơ và Xuân Đào đứng dựa bãi biển, ngó quanh bốn phía, thật là tứ cố vô lân, trên bờ thì chẳng có nhơn dân, dưới biển cũng chẳng thấy ghe thuyền lai vãng, chỉ thấy non cao rừng rậm, biển rộng sóng nhào. Tội nghiệp thay cho tiểu thơ với Xuân Đào là phận gái yếu đuối mảnh ma, mà gặp cảnh ngộ thảm khổ đắng cay nầy, thì biết bao giọt sầu lai láng. Đó rồi hai cô cháu dắt nhau lần lần kiếm đường mà đi. May gặp một cái đường mòn, hai bên đường chỉ thấy rừng hoang cỏ rậm, vượn hú ve ngâm. Cô cháu lẳng lặng làm thinh, cứ lần theo đường mà phăng phăng bước tới, lúc lên cao, khi xuống thấp, trông cho mau mau ra khỏi rừng hoang, hoa may có gặp nhà nào, đặng ghé vào ngơi nghỉ, và hỏi thăm đường sá luôn thể. Song đi một hồi đã mỏi mệt, mà chẳng thấy nhà nào, duy nghe văng vẳng bên tai những tiếng quốc quốc te te, càng nghe càng thêm buồn thảm. Ấy là:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Kêu sầu mỏi miệng tiếng đa đa.
Hai cô cháu cứ việc băng rừng lướt bụi, xuống hố lên đèo, đi quanh lộn trong đám rừng rậm cây cao, mà lẩn bẩn trời đã xế bóng.
Tiểu thơ đi nữa không nổi, bèn ngồi dựa mé rừng mà than rằng: “Trời ôi! Trời cho tôi gặp chi một cảnh ngộ rất thảm khổ như vầy, từ hồi sớm mai tới bây giờ, mãn đi quanh lộn trong đám rừng nầy, chẳng biết chừng nào ra đặng. Nếu trời tối lại, những loài độc trùng ác thú tràn ra, thì hai ta ắt không còn sanh mạng, phần thì bụng đói xếp ve, cơm nước không có, phần đường rừng gay trở, tay chơn bủn rủn khó nổi bước đi, những mãi ngậm thở ngùi than, mà mặt sầu đã chứa chan hàng lụy.
Xuân Đào thấy vậy cũng rưng rưng nước mắt, mà nói với tiểu thơ rằng: Cô ôi! Trời đã gần tối, cô ráng đi một đỗi nữa coi, họa may có gặp nhà ai chăng, đặng xin vào mà nghỉ. Nếu để tối rồi, thì hai cô cháu mình ở giữa rừng hoang nầy, biết đâu mà náu nương trú ngụ.
Tiểu thơ nghe nói liền ngước mặt lên trời thấy gương ô hầu lặn, còn một vài cụm mây chiều đương bay phưởng phất trên không, và văng vẳng bên tai, thì nước dưới suối nó chảy nghe rĩ rả. Ấy là:
Trông mây dường vẽ tình lưu lạc,
Nghe suối như đờn khúc biệt ly.
Cái cảnh tình rất bi ai thể thảm nầy làm cho tiểu thơ và thể nữ, thêm gan héo ruột xáo, rồi hai mặt nhìn nhau mà rưng rưng giọt lụy.
Bỗng đâu một ánh sáng mặt trời, xỏ ngang rừng cây, và dọi ngay trước mặt tiểu thơ dường như kẻ đứng tạo hóa thấy tiểu thơ ngồi đó, thì cầm ngọn đuốc tàn dương mà rọi ngay nét mặt, đặng từ giã tiểu thơ, rồi phăng phăng xuống chón Tây đài, mà gài then đóng cửa.
Khi tiểu thơ thấy cái bóng tàn dương đã lặn xuống khuất núi, hì bao nhiêu những sự tối tăm lần lần rủ nhau áp lại, làm cho đường sá lờ lờ, cỏ cây mù mịt. Nào là chim mèo lăng xăng ré tiếng, nào là giọng ục rậm rật kêu vang, dường như thấy gái quốc sắc lạc đàng, mà xúm lại buông lời ghẹo hảnh. Trời càng ngày càng tối, một cô một cháu ở giữa rừng hoang, cái khổ não kinh tâm và sự đói cơm khát nước, nó cứ theo cắn rứt trong lòng, dầu rứt cũng không ra, chà cũng không hết.
Đó rồi cô cháu lần lần đi lại gốc cây đại thọ, ngồi đó ngậm thở ngùi than, ôm nhau mơ màng mà chờ sáng. Đêm khuya vắng vẻ, những tiếng xao xác gió đưa nhành lá, nghe dường rừng cây nó thỏ thẻ chuyện trò, lộp độp sương đổ lai rai, nghe như tiếng hài của khách lâm tuyền bước đi qua lại.
Tiểu thơ và thể nữ khi đương canh khuya mờ mệt, mơ màng nửa tỉnh nửa mê, bỗng đâu nghe tiếng rọc rạch trong rừng, kế thấy một con quái mình mẩy đen thui, ở phía xa kia đi tới, bộ tướng dữ dằn, hả miệng nhăn nanh và đi và táp bập bập, hai mắt sáng như ngọn đèn, đi tới đâu thì cây rung nhánh gãy.