Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 1-7




“Mình thích đôi giày đó,” tôi nói trong lần đầu cậu ngồi trên sàn phòng ngủ của tôi, tay cuốn một điếu cần sa. “Cậu kiếm chúng ở đâu thế? Hay là, chờ chút, mình không nên hỏi thế, đúng không? Dù sao đi nữa, mình nghĩ đôi giày của cậu rất tuyệt.”

“Cảm ơn,” cậu nói, thành thạo dùng lưỡi nhấp nước bọt để gắn điếu cần sa. Trước đây tôi chưa bao giờ hút cần sa, nhưng tôi tuyên bố rằng tôi vẫn dùng nó đều đặn từ hồi mười một tuổi.

“Có vẻ là loại ngon nhỉ,” tôi nói về cái túi bóng đựng đầy cần sa nửa vàng nửa xanh mà cậu đã cuốn, được nhét trong túi áo khoác của cậu.

“Ờ, nó… cậu biết đấy… cũng được,” cậu vừa nói vừa châm thuốc. Trong những câu nói ngắc ngứ ấy không hề có chút coi thường nào, chỉ là một vẻ ngập ngừng và bối rối. Ở cậu có vẻ dè dặt của một người bị mất trí nhớ đang cố gắng hồi tưởng lại điều gì.

“Mình thích mùi này,” tôi nói. “Mình nghĩ mình nên mở cửa sổ. Phòng khi mẹ mình vào.”

Tôi tự nhiên cho rằng chúng tôi cần những kẻ địch chung trong hình dạng của chính phủ Mỹ, trường học và bố mẹ tôi.

“Mẹ cậu tốt nhỉ,” cậu nói.

“Mẹ mình cũng được.”

Cậu đưa điếu cần sa cho tôi. Dĩ nhiên tôi cố hút nó với vẻ chuyên nghiệp, thanh nhã. Nhưng ngay hơi đầu tiên tôi đã ọe khan quá mạnh đến nỗi gần như nôn mửa.

“Nó khá nặng đấy,” cậu nói. Cậu lấy lại điếu cần sa, rít một hơi duyên dáng và trao lại cho tôi mà không bình luận gì thêm. Tôi lại bị nghẹt thở, và sau khi đã hồi phục, điếu thuốc lại được chuyển sang cho tôi lần thứ ba, như thể tôi thành thạo hệt như tôi đã giả vờ. Lần thứ ba tôi làm khá hơn một chút.

Và thế là, không nhận ra sự thiếu kinh nghiệm của tôi, Bobby đã bắt đầu dạy tôi thói quen nghiện ngập ở độ tuổi đó.

Chúng tôi ở bên nhau suốt ngày. Đó là kiểu tình bạn hấp tấp, vội vàng thường gặp ở những người còn trẻ, cô đơn và tham vọng. Dần dần, từng chút một, Bobby mang đến những đĩa hát, áp phích và quần áo của cậu. Chúng tôi chỉ về nhà cậu trong chốc lát, đủ để tôi biết cậu đang trốn tránh khỏi thứ gì: một mùi chua chua thiu thiu của đồ vải bẩn chưa giặt và thức ăn để lâu, một ông bố bò từ phòng này sang phòng khác với sự thận trọng quá mức do say xỉn. Bobby ngủ trong một cái túi ngủ trên sàn phòng tôi. Trong bóng tối, tôi nằm nghe tiếng cậu thở. Thi thoảng cậu ú ớ rên rỉ trong những giấc mơ.

Khi thức dậy vào buổi sáng, cậu thường nhìn quanh với vẻ ngạc nhiên, rồi nhận ra mình đang ở đâu và mỉm cười. Ánh nắng xiên vào ô cửa sổ biến chòm lông trên ngực cậu từ màu hoàng kim sang màu đồng.

Tôi mua cho mình một đôi giày giống của cậu. Tôi bắt đầu để tóc dài.

Dần dần, cậu bắt đầu nói năng trôi chảy hơn. “Mình thích ngôi nhà này,” cậu nói vào một buổi tối mùa đông khi chúng tôi đang ngồi nhàn rỗi trong phòng tôi, hút ma túy và nghe nhạc của the Doors. Những bông tuyết táp vào ô cửa kính, quay cuồng trên con phố vắng yên tĩnh. The Doors đang hát bài L.A.Woman.

“Một ngôi nhà như thế này có giá bao nhiêu nhỉ?” Cậu hỏi.

“Chắc là không đắt lắm đâu,” tôi nói. “Nhà mình cũng chẳng giàu có gì mà.”

“Mình muốn mai sau sẽ có một ngôi nhà như thế này,” cậu nói, khi đưa tôi điếu cần sa.

“Không phải chứ,” tôi bảo cậu. Trong đầu tôi đang nghĩ đến những điều khác.

“Thật đấy,” cậu nói. “Mình muốn thế mà. Mình thích nơi này.”

“Cậu đâu thực sự muốn,” tôi nói. “Cậu chỉ nghĩ thế vì cậu đang phê thôi.”

Cậu rít một hơi cần sa. Cậu có một kiểu hút ma túy thanh lịch gần như yểu điệu, kẹp điếu cần sa bằng ngón cái và ngón giữa. “Vậy thì mình sẽ phê suốt ngày,” cậu nói khi nhả khói ra. “Rồi mình sẽ luôn thích ngôi nhà này cũng như Cleveland và tất cả mọi thứ, như chính bản thân nó bây giờ.”

“Chà, đó cũng là một cách sống,” tôi đáp.

“Cậu không thích ngôi nhà này sao?” Cậu hỏi. “Cậu nên thích nó mới phải. Cậu không biết cậu có gì ở đây đâu.”

“Những gì mà mình có ở đây,” tôi nói, “là một người mẹ hỏi mình câu đầu tiên vào buổi sáng là mình muốn ăn gì vào bữa tối, và một người cha hiếm khi rời bỏ rạp chiếu phim của ông.”

“Đúng vậy, anh bạn,” cậu nhe răng cười.

Cẳng tay cậu, với cổ tay to và bao phủ bởi lớp lông màu vàng, đặt ngẫu hứng lên đầu gối. Nó chỉ nằm đó, như thể nó chẳng có gì đặc biệt.

Tôi tin rằng tôi biết thời điểm khi sự quan tâm của tôi chuyển thành tình yêu. Một đêm đầu xuân, Bobby và tôi đang ngồi trong phòng tôi, nghe nhạc của the Grateful Dead. Đó là một đêm bình thường trong cuộc đời đầy biến động của tôi. Bobby đưa cho tôi điếu cần sa, và sau khi tôi nhận nó, cậu rụt tay lại và nhìn vào một cái nốt ruồi màu nâu đỏ bên dưới cổ tay trái của cậu. Mặt cậu hơi lộ vẻ hoài nghi - ở tuổi mười ba cậu đã biết rõ về cơ thể mình, rõ ràng cậu đã bỏ sót cái nốt ruồi đặc biệt đó dù tôi đã thấy nó nhiều lần, một sự rối loạn sắc tố hơi lệch tâm nằm trên một cái chạc tĩnh mạch. Cái nốt ruồi đó khiến cậu ngạc nhiên. Tôi ngờ rằng cậu thấy hơi sợ khi nhận ra cơ thể mình có gì kì lạ. cậu sờ vào cái nốt ruồi, tò mò, bằng ngón trỏ của bàn tay phải, và mặt cậu cáu kỉnh thấy rõ, như một đứa bé. Khi cậu lo lắng về cái khiếm khuyết nhỏ đó, tôi nhận thấy rằng cậu sống trong cơ thể cậu một cách trọn vẹn, đầy ngạc nhiên pha lẫn bối rối giống hệt như cách tôi cảm nhận về bản thân mình. Trước đó tôi vẫn tin rằng – dù tôi chưa bao giờ thú nhận điều này, ngay cả với chính tôi – tất cả những người khác đều không thực bằng tôi; cuộc đời họ là một giấc mơ tạo nên từ những hình ảnh và cảm xúc tương tự như những bức ảnh: riêng biệt và rõ ràng, hiển nhiên, đơn điệu. Cậu nhẹ nhàng sờ vào cái nốt ruồi trên cổ tay, với đôi chút sợ hãi. Đó là một cử chỉ nhỏ. Quan sát cử chỉ đó giống như là trông thấy ai đó đang kiểm tra đồng hồ và biểu lộ sự ngạc nhiên trước giờ giấc. Nhưng trong khoảnh khắc, tôi đã nhìn thấy Bobby. Tôi có thể trông thấy cậu – cậu đang ở bên trong cơ thể đó. Cậu bước vào thế giới này với tâm trạng hoang mang, cảm thấy sợ hãi và kinh ngạc khi vẫn còn sống ở đây, ngay tại nơi này, trong một căn phòng ngủ có tường ốp bằng gỗ ván thông.

Rồi khoảnh khắc đó qua đi và tôi phải đối mặt với một thứ gì đó. Sau đêm đó – một đêm thứ Ba – tôi không thể, ngay cả khi tôi mong muốn, quay lại với cái trạng thái không phải nghĩ và mơ về Bobby. Ý thức về tính thực tại trong mọi phẩm chất của Bobby ngày càng lớn dần lên trong tôi, và tôi không thể ngừng băn khoăn, từng giờ từng phút, cảm giác thật sự khi ở bên trong da thịt cậu là như thế nào.

Đêm này qua đêm khác, chúng tôi lang thang trên phố như những điệp viên. Chúng tôi kết bạn với một gã lang thang tên là Louis, kẻ sống trong một cái thùng dương cầm và mua cho chúng tôi những chai rượu vang đỏ để đổi lấy thức ăn mùa chúng tôi lấy trộm từ bếp của mẹ tôi. Chúng tôi trèo lên những nóc nhà ở khu trung tâm qua lối thoát hiểm vì cảm giác mới lạ khi được đứng trên một điểm cao. Chúng tôi dùng ma túy tổng hợp và đi lang thang hàng giờ qua một bãi phế thải, nó lấp lánh như một mỏ kim cương, với vô số những hang động, những ánh sáng kì lạ và những cao nguyên lung linh ánh trăng bàng bạc mà tôi cố hứng bằng tay. Chúng tôi đi nhờ xe đến Cincinnati để xem liệu chúng tôi có thể đến đó và quay trở về trước khi bố mẹ nhận ra rằng chúng tôi mất tích không.

Một lần, vào một đêm thứ Năm, Bobby dẫn tôi đến nghĩa địa nơi anh trai và mẹ cậu được chôn cất. Chúng tôi ngồi trên mộ họ, chuyền tay nhau một điếu cần sa.

“Cậu biết không,” cậu nói, “mình không sợ nghĩa địa đâu. Người chết nghĩa là, những người từng muốn những thứ mà cậu và mình cũng muốn thôi.”

“Bọn mình muốn gì nhỉ?” Tôi mơ hồ hỏi.

“Ôi, Chúa ơi, cậu biết đấy,” cậu nói. “Bọn mình muốn, ờ, những thứ tương tự như những người ở đây đã muốn.”

“Đó là gì?”

Cậu nhún vai. “Muốn sống, mình nghĩ vậy,” cậu nói.

Cậu miết những ngón tay lên đám cỏ. Cậu đưa tôi điếu cần sa đã bị ướt vì nước dãi của cả hai chúng tôi, và tôi phả một luồng khói trắng lên trời, nơi cụm sao Thất Nữ đang lung linh, nhấp nháy. Cleveland tỏa lên thứ ánh sáng nhỏ nhoi của nó – được phát ra từ những chiếc ti vi và đèn chụp. Một chiếc ô tô phóng qua, để lại trong màn đêm lạnh lẽo vài nhịp của bài Helter Skelter.

Tháng Tư đến. Đó chưa phải là mùa đi bơi, nhưng tôi cứ đòi đến mỏ đá ngay khi những mảng tuyết đọng đã biến mất không còn dấu vết. Tôi biết chúng tôi sẽ đi bơi mà không mặc gì cả. Tôi không thể chờ đợi thêm nữa.

Đó là một ngày xuân bất chợt hiện ra từ tiết đông giá kéo dài, với bầu trời trong như tuyết tan. Những bông hoa cuống dày và chịu được rét đầu tiên đã nhú lên khỏi mặt đất. Mỏ đá, nằm cách thành phố chúng tôi ba dặm, phản chiếu bầu trời trên một bề mặt tối sẫm và bất động như đá vỏ chai. Ngoài một con bò màu nâu nhạt lững thững từ trên đồng cỏ xuống uống nước ở chỗ nông, Bobby và tôi là những thực thể sống duy nhất ơ đó. Có vẻ như chúng tôi đã đi nhờ xe đến một cái hồ băng cheo leo trên dãy Himalaya.

“Đẹp thật,” cậu nói. Chúng tôi chuyền tay nhau điếu cần sa. Một con chim giẻ cùi màu xanh ló ra, với tiếng kêu chói tai đầy nghi vấn, từ một cây tần bì vẫn đang nảy lộc.

“Bọn mình phải bơi thôi,” tôi nói. “Bơi đi.”

“Vẫn còn lạnh lắm,” cậu nói. “Ôi tời, nước vẫn còn đóng băng kia mà.”

“Dù sao thì chúng ta vẫn phải bơi. Đi nào. Đây là lần đi bơi chính thức đầu tiên của mùa hè này. Nếu bọn mình không bơi ngày hôm nay, ngày mai trời sẽ đổ tuyết tiếp đấy.”

“Ai bảo cậu thế?”

“Tất cả mọi người đều biết điều đó. Đi thôi nào.”

“Có lẽ thế,” cậu nói. “Nhưng mà vẫn lạnh khiếp đi được.”

Lúc đó chúng tôi đã đến bờ sỏi, chỗ được coi là bãi tắm, nơi con bò, nghiêm nghị đứng ở mép nước, nhìn chúng tôi chằm chằm với đôi mắt đen nhánh. Mỏ đá này có hình móng ngựa gồ ghề, với những vách đá vôi lởm chởm nhô ra theo hình bán nguyệt và rồi thụt lại về phía bãi tắm.

“Ít ra thì trời cũng không quá lạnh,” tôi nói với Bobby. “Giống như là đang ở Bermuda vào thời điểm này trong năm vậy. Xem mình này.”

Bị thôi thúc bởi mối e ngại của tôi rằng ngày hôm đó chúng tôi sẽ không làm gì ngoài việc hút cần sa, vẫn mặc nguyên quần áo, bên cạnh một vùng nước thẫm, tôi bắt đầu leo lên con dốc trải đá phiến sét dẫn đến rìa vách đá cao nhất. Những vách đá gần hơn cao chưa tới sáu mét, và vào mùa hè những người đi bơi liều lĩnh thường lao từ trên đó xuống làn nước sâu. Tôi thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ đến việc lao mình từ trên một vách đá xuống. Tôi không hề can đảm chút nào. Nhưng hôm đó, với đôi giày cao bồi vẫn còn bó chặt vào chân, tôi bò lên con dốc dẫn đến thềm đá vôi nứt nẻ, đây đó nhú lên những bông nghệ tây màu vàng nhạt.

“Trên này là mùa hè đấy,” tôi hét lên với Bobby, người đang đứng một mình trên bãi, tay khum khum cầm điếu cần sa. “Lại đây,” tôi hét to. “Đừng lấy ngón tay thử nước nữa, hãy lên đây và bọn mình sẽ lao xuống. Bọn mình phải làm thế.”

“Không đâu, Jon,” cậu gọi. “Quay lại đi.”

Lúc đó, tôi bắt đầu cởi quần áo trong một trạng thái hồ hởi, khích động quá mức. Đây là một Jonathan liều lĩnh, can đảm hơn, đứng cheo leo trên một vách đá ấm áp, thoát y trước cái nhìn ngơ ngác của một con bò đang uống nước.

“Jon,” Bobby gọi, khẩn trương hơn.

Khi cởi áo rồi đến giày và tất, tôi cảm thấy một sự tự do mới mẻ mà trước đây tôi chưa bao giờ biết đến. Cảm giác đó lớn dần khi từng mảng da thịt được tiếp xúc với ánh nắng và khí trời rực rỡ, mát mẻ. Tôi có thể cảm thấy người mình nhẹ bẫng, hụt hẫng, với mỗi mảnh vải mà tôi trút bỏ. Tôi hấp tấp cởi quần jean và quần đùi, rồi đứng đó một lúc, gầy nhẳng lõa lồ, phóng túng, bao bọc trong ánh dương giá lạnh.

“Xem đây,” tôi hét lên.

Bobby, ở phía xa bên dưới, nói: “Này, cậu, không…”

Và vì Bobby, vì cuộc đời mới của tôi, tôi lao người xuống.

Một mảnh băng vẫn còn nổi trên mặt nước, không hơn gì một tấm màng mỏng, vô hình, cho đến khi tôi va vào nó. Tôi nghe thấy tiếng lắc rắc khe khẽ, cảm thấy băng vỡ ra khi quanh mình, và rồi thân thể bị quăng vào cái lạnh không ngờ, lạnh đến mức khiến tôi ngừng thở và có vẻ, trong một lúc lâu, còn làm tim tôi ngừng đập nữa. Da thịt tôi đột ngột co rúm lại, dính sát vào tận xương trong nỗi hốt hoảng bản năng, và tôi nghĩ, với một sự rõ ràng tuyệt đối, rằng tôi đã chết. Chết là như thế này đây.

Rồi tôi thấy mình nổi lên trên mặt nước, va vào băng lần thứ hai. Sự tỉnh táo dần dần trôi tuột khỏi cơ thể, nổi lên, và khi hồi tưởng lại tôi có một ấn tượng rõ rệt về việc thấy mình đang bơi vào bờ, thở hổn hển, phổi siết chặt như nắm đấm, mảnh băng vỡ tan với mỗi cú khoát tay, bắn những mảnh vụn lóng lánh như kim cương lên không trung.

Bobby lội xuống tới đùi để kéo tôi lên. Tôi vẫn nhớ hình ảnh chiếc quần jean ướt sũng dính chặt vào ống chân cậu. Tôi còn nhớ mình đã nghĩ rằng giày của cậu sẽ bị hỏng.

Phải mất một lúc nữa đầu óc tôi mới tỉnh táo để nhận ra cậu đang mắng tôi, ngay cả khi cậu giúp tôi lên khỏi mặt nước.

“Chết tiệt,” cậu thét lên, và miệng cậu kề sát tai tôi. “Ôi, đồ chết tiệt. Chết tiệt.”

Tôi còn mải thở hồng hộc, không đáp nổi lời nào. Cậu dìu tôi lên bờ sỏi trước khi thả tôi ra và chửi rủa tôi không tiếc lời. Điều tốt nhất tôi có thể làm là đứng đó, thở hổn hển và run lập cập, khi cậu quát tháo.

Ban đầu cậu cứ đi đi lại lại theo đúng một kiểu, như thể chạm đến hai điểm mốc vô hình cách nhau ba mét, thét lên: “Đồ khốn kiếp, đồ ngu ngốc khốn kiếp.” Khi cậu quát mắng, khoảng cách giữa hai điểm mốc cứ rút ngắn dần lại, cho đến khi cậu chỉ còn luẩn quẩn trong những vòng nhỏ hẹp, theo mẫu của một cái lò xo xoắn. Mặt cậu đỏ gay. Cuối cùng cậu dừng bước, nhưng vẫn xoay người, ba lần, như thể cái lò xo vẫn đang xoắn lại bên trong cậu. Lúc đó cậu chưa ngừng quát tháo. Cậu thôi không gọi tôi là đồ khốn kiếp nữa, mà chuyển sang những ngôn từ tôi không hiểu nổi, một chuỗi những lời lải nhải cáu kỉnh có vẻ không nhắm vào tôi mà là vào bầu trời, những vách đá và những cái cây vô tri.

Tôi cứ ngẩn ra nhìn. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy một sự phẫn nộ nào như thế, tôi không biết là nó lại xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Tôi chẳng biết làm gì ngoài chờ đợi, và hi vọng nó kết thúc.

Một lúc sau, không nói là mình sẽ làm gì, Bobby chạy đi lấy quần áo của tôi từ trên rìa vách đá. Dù cơn giận của cậu đã phần nào lắng dịu, nó vẫn chưa hề tắt hẳn. Tôi đứng trần truồng trên lớp sỏi, đợi cậu. Khi cậu mang quần áo và giày của tôi lại, cậu trút nó thành đống dưới chân tôi, nói: “Mặc nhanh vào đi,” với giọng vô cùng trách cứ. Tôi làm theo lời cậu bảo.

Khi tôi đã mặc xong quần áo, cậu choàng chiếc áo khoác của cậu lên người tôi, phủ lên chiếc áo khoác của tôi.

“Không, cậu cần nó mà,” tôi nói. “Quần cậu ướt hết rồi…”

“Im đi,” cậu bảo tôi, và tôi nghe theo.

Chúng tôi quay lại đường cao tốc, nơi chúng tôi sẽ đi nhờ xe về thành phố. Trên đường đi, Bobby choàng tay qua vai tôi và giữ tôi kề sát bên cậu. “Đồ khốn kiếp ngu ngốc,” cậu lẩm bẩm. “Ngu ngốc, ngu ngốc. Ngu ngốc.” Cậu cứ ôm tôi khi chúng tôi đứng bên đường, giơ ngón cái ra để vẫy xe và vẫn ôm tôi trong băng ghế sau của chiếc Volkswagen của hai sinh viên trường Oberlin, những người đã cho chúng tôi đi nhờ. Cậu choàng tay ôm tôi suốt quãng đường về nhà, miệng vẫn lải nhải.

Khi đã về tới nhà, cậu mở vòi tắm nước nóng. Cậu gần như cởi quần áo cho tôi và bắt tôi vào trong. Chỉ sau khi tôi đã tắm xong, quấn người trong chiếc khăn tắm, cậu mới cởi quần áo ướt của mình ra và bước tới chỗ vòi hoa sen. Làn da trần của cậu hồng rực lên trong phòng tắm đầy hơi nước. Khi cậu ló ra, lấp lánh và lấm tấm những giọt nước, chòm lông nhạt màu dính chặt vào ngực cậu.

Chúng tôi về phòng tôi, bật đĩa Jimi Hendrix và cuốn một điếu cần sa. Chúng tôi ngồi khi vẫn quấn khăn quanh mình, hút thuốc. “Ngu ngốc,” cậu nói nhỏ. “Cậu có thể đã tự sát rồi đấy. Cậu biết mình sẽ cảm thấy thế nào nếu cậu bị như thế không hả?”

“Không,” tôi nói.

“Mình sẽ cảm thấy… mình không biết nữa.”

Và rồi cậu nhìn tôi buồn bã. Tôi đặt điếu cần sa xuống cái gạt tàn và, với một hành động bạo gan vượt xa việc nhảy từ trên vách đá xuống làn nước băng đá – vốn đã vượt quá tất cả những hành động can đảm của tôi cộng lại, tôi giơ tay ra và chạm vào cẳng tay cậu. Tay cậu đang nằm đó, gân guốc với những sợi lông màu hoàng kim, dưới những ngón tay tôi. Tôi nhìn xuống sàn – với tấm thảm bện và ván lát sàn nhà màu bí ngô. Bobby không rụt tay lại.

Một phút trôi qua. Chẳng có gì xảy ra cả. Trong nỗi hồi hộp, mạch đập thình thịch, tôi bắt đầu dùng đầu ngón trỏ vuốt ve cánh tay cậu. Giờ đây, tôi nghĩ, cậu sẽ thấy tôi đang muốn gì. Giờ thì cậu sẽ chạy vụt đi vì sợ hãi và ghê tởm. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục cái động tác nhỏ duy nhất đó, với một sự hồi hộp quá mạnh mẽ đến mức không thể phân biệt nổi với nỗi khao khát. Cậu không rụt tay lại, cũng không phản ứng gì.

Cuối cùng tôi cũng nhìn được vào mặt cậu. Mắt cậu sáng và không chớp như mắt của một con thú, miệng cậu trễ ra. Tôi có thể nhận thấy cậu cũng đang sợ, và chính nỗi sợ hãi của cậu đã khuyến khích tôi di chuyển bàn tay lên bờ vai trần của cậu. Làn da trên vùng xương bả vai rộng lớn nhẵn nhụi ấy nổi gai ốc. Tôi có thể cảm thấy hơi thở phập phồng khe khẽ của cậu.

Vì thiếu tính thận trọng, tôi nhanh chóng đưa tay xuống đùi cậu. Mặt cậu co rúm và nhăn nhó, nhưng không rụt người lại. Tôi luồn tay xuống dưới chiếc khăn cậu đang quấn. Tôi thấy vẻ sợ hãi và thích thú lướt qua mắt cậu. Vì tôi không biết phải làm gì, tôi lặp lại những động tác vuốt ve tôi từng làm với chính mình. Khi cậu cương cứng trong tay tôi, đó có vẻ là dấu hiệu của sự tha thứ.

Rồi cậu giơ tay ra và, với sự nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên, cũng chạm vào tôi. Chúng tôi không hôn nhau. Chúng tôi cũng không ôm nhau. Jimi đang hát bài Purple haze. Lò sưởi kêu ro ro từ sâu trong nhà. Hơi rút lên qua các ống dẫn.

Sau đó, chúng tôi lau dọn bằng khăn giấy và mặc quần áo trong yên lặng. Tuy nhiên, khi chúng tôi mặc xong, Bobby châm lại điếu cần sa đang hút dở và bắt đầu nói bằng giọng bình thường về những thứ bao giờ: chuyến lưu diễn sắp tới của the Dead, kế hoạch của chúng tôi về việc kiếm việc làm và mua ô tô cùng nhau. Chúng tôi chuyền tay nhau điếu cần sa và ngồi lên sàn phòng tôi như bất kì hai thiếu niên Mỹ nào, trong một ngôi nhà bình thường bao quanh bởi nỗi buồn chán và màu xanh đang trỗi dậy của mùa xuân Ohio. Lại thêm một bài học nữa trong mớ kiến thức được tích lũy liên tục của tôi: như những hành động bất hợp pháp khác, tình yêu giữa hai chàng trai tốt nhất nên được coi là một chuyện quá bình thường. Phép lịch sự đòi hỏi ta không nên phê phán hành động vụng về, lóng ngóng của một người mà nên coi rằng thực sự thì người ta đã hành động với sự thành thạo, bình tĩnh của một tên tội phạm bẩm sinh.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.