Resident Evil 1 - Âm Mưu Của Tập Đoàn Umbrella

Chương 7




Dịch giả: Seraphy, GtaMaster, Jr, Hoa Thần, JediDarkLord

Phá khóa dễ ợt, ba cái lẫy dẹt nằm trên cùng một hàng; chỉ cần với hai cái kẹp giấy, Jill cũng thừa sức mở được nó. Theo như tấm bản đồ thì cánh cửa đó sẽ mở ra một hành lang dài....

Không còn nghi ngờ gì nữa. Cô nhìn lại màn hình máy tính thêm một lúc nữa rồi thả nó vào trong ba lô và bắt đầu suy nghĩ. Hình như là có một con đường thoát ra phía sau tòa nhà, xuyên qua vài cái hành lang và một loạt căn phòng. Cô có thể vừa tìm Wesker và những người khác trên đường đi, vừa kiểm nghiệm xem con đường đó có đảm bảo thoát ra được không. Cô bước từng bước một lên cái cầu thang chật hẹp, tay lăm lăm khẩu Beretta đã nạp đầy đạn.

Có điều gì đó bất thường. Cái hành lang không hề đẹp mắt chút nào, chỉ có thảm trang trí và giấy dán tường màu nâu vàng nhạt, Mấy cánh cửa sổ lớn thì không nhìn thấy gì khác ngoài bóng tối bao phủ. Còn đống tủ trưng bày thì xếp thành hàng sát tường, tuy vậy...

Có ba cái tủ, trên đỉnh mỗi cái có một con cừu nhỏ, và mỗi cái lại trưng bày một dãy lớn xương người trắng nhởn được sắp xếp ngay ngắn trên các kệ một cách nổi bật, rải rác bên cạnh là những món đồ khó hiểu. Jill bắt đầu đi dọc hành lang, dừng lại một chút trước những cảnh tượng kỳ quái. Xương sọ, xương cánh tay, xương chân, xương bàn tay, xương bàn chân. Có ít nhất ba bộ xương hoàn chỉnh, và giữa những chiếc xương tái nhợt và rỗ lỗ chỗ đó là lông vũ, chuỗi hạt bằng đất sét cùng những mảnh da lột nhăn nhúm.

Jill nhấc thử một trong những mảnh da lột lên và nhanh chóng phải đặt ngay chúng xuống, chùi mấy ngón tay mình vào quần. Cô không chắc lắm, nhưng cảm giác thì đúng như cô tưởng tượng, y như da người thuộc, cứng và có vẻ nhờn nhờn.

Choang!

Cánh cửa sổ phía sau lưng cô vỡ tung, kính bắn văng vào phía trong, một hình hài mềm nhũn, gân guốc phóng vào trong sảnh, gầm gừ và đang táp vào không khí. Đó là một trong số những con chó săn giết người bị đột biến, hai con mắt đỏ au như những mảnh da sống đẫm máu của nó. Nó bắt đầu tấn công cô, những chiếc răng trắng ánh lên và nguy hiểm như những miếng thủy tinh lởm chởm sáng lấp lánh rơi xuống từ khung cửa sổ bị đập vỡ.

Lùi lại giữa hai chiếc tủ, Jill bắt đầu bắn. Góc bắn bị chệch, viên đạn làm tróc lớp gỗ dưới chân cô trong khi con chó đã nhảy chồm về phía cô, tiếng gầm gừ phát ra từ sâu trong cổ họng.

Nó va thẳng vào bắp đùi Jill, đẩy Jill va rầm vào tường đau đớn rồi cố gắng cắn ngập hàm răng của nó vào người cô. Mùi thịt thối rữa phả vào người Jill, cô lại tiếp tục bắn không biết thêm bao nhiêu phát và nhận thấy rõ là mình đang gào lên trong sự sợ hãi lẫn phẫn nộ, một tiếng kêu giận dữ như phát ra từ yết hầu cùng tiếng rít lúc hấp hối phát ra từ con chó ghê tởm.

Viên đạn thứ năm trúng thẳng vào ngực của con chó đẩy văng nó ra xa. Với một tiếng kêu ăng ẳng cuối cùng nghe như tiếng chó con, nó đổ gục xuống sàn, máu tuôn ra thấm đẫm chiếc thảm màu nâu vàng.

Jill vẫn tiếp tục chĩa súng vào cái thân hình bất động, cô hít một hơi dài, rùng mình. Các chi của con chó đột ngột co rút lại, những móng vuốt to lớn co giật, đập đập vào mặt sàn nhầy nhụa máu đỏ tạo thành những vệt hình thù kỳ quái, rồi nó lại nằm im. Jill nghỉ ngơi một chút, cô xem cử động vừa rồi như một sự bùng phát cuối cùng trước khi chết, khi sự sống đang được giải thoát khỏi cơ thể. Người Jill bị thâm tím, nhưng con chó đã chết.

Jill gạt tóc ra khỏi mắt và cúi xuống cạnh nó, nhìn kỹ những bắp thịt lộ ra ngoài và hàm răng khổng lồ. Lúc trước thì trời quá tối và cô quá vội vã để có thể nhìn rõ những con vật đã giết chết Joseph, nhưng dưới ánh sáng rực rỡ của hành lang, ấn tượng lúc ban đầu của cô vẫn không hề thay đổi; nó trông giống hệt như một con chó bị lột sạch da.

Jill đứng dậy rồi quay lại, thận trọng nhìn hàng cửa sổ trong ngôi nhà. Rõ ràng chúng không giúp gì cho việc phòng chống những mối nguy cơ bên ngoài. Hành lang đột ngột rẽ sang trái và cô khẩn trương vượt qua những hình thù kinh khủng được trang trí trên tường.

Cánh cửa cuối hành lang đã được mở khóa. Nó mở ra một hành lang khác, tuy không sáng bằng cái đầu nhưng đỡ rùng rợn hơn. Giấy dán tường màu xanh xám lặng thinh trưng lên những hình vẽ trang trí thông thường và phong cảnh dịu dàng, không có bất kỳ một cái xương hay vật thờ cúng nào trong tầm mắt.

Cánh cửa đầu tiên phía bên phải đã bị khóa, có một hình áo giáp được khắc cạnh lỗ khóa. Jill nhớ lại danh sách trong máy tính, có thông tin gì đấy về những cái chìa khóa hiệp sỹ, nhưng cô quyết định là chưa quan tâm tới nó vội. Theo như bản đồ của Trent, có một căn phòng ở phía còn lại mà không dẫn đến đâu cả. Thêm nữa, nếu Wesker đã đi theo lối này, cô không nghĩ rằng hắn lại đi khóa trái cửa sau khi đã đi qua.

Đúng thế, có vẻ là chưa chắc Chris đã biến mất, không nên giả định bất cứ điều gì về nơi này.

Cánh cửa tiếp theo dẫn cô vào một phòng tắm nhỏ tạo cảm giác cổ xưa, có một cái quạt trần và một cái bình bốn chân kiểu cổ. Căn phòng không có dấu hiệu gì là mới được sử dụng cả.

Jill đứng trong căn phòng cũ kỹ, nhỏ bé, hít thở thật sâu, và cảm thấy kết quả là chất andrenaline xộc lên hệt như lúc cô đứng ở ngoài hành lang. Lớn lên, Jill học được cách tận hưởng cảm giác rùng mình trước nguy hiểm, của việc lén lút đột nhập và thoát ra khỏi những nơi xa lạ chỉ với vài đồ nghề đơn giản cộng thêm sự thông minh nhanh trí giúp cô được an toàn. Từ khi gia nhập đội S.T.A.R.S., cảm giác thích thú thời thơ ấu ấy bị giảm bớt dần, và thay vào đó là cái thực dụng của đồ hỗ trợ và súng ống, nhưng giờ đây nó đã trở lại, không báo trước và cũng không phải là không hay. Jill không thể tự lừa dối mình về cái thú vui đơn giản mà thường kéo theo nó là việc đối mặt với cả cái chết lẫn cảm giác chiến thắng. Cô cảm thấy khá... tuyệt. Tràn đầy sức sống.

“Đừng có mà liên hoan vội, tâm trí cô thì thào một cách châm biếm. Hay là mày đã quên mất rằng đội S.T.A.R.S. đang bị nuốt chửng dưới cái đáy địa ngục này?”

Jill buớc trở lại hành lang tĩnh lặng rồi lách qua một góc khác, tự hỏi liệu Bary đã tìm thấy Chris chưa và cả hai người bọn họ có tìm thấy thành viên nào của đội Bravo không. Cô cảm thấy mình có lợi thế khi có bản đồ trong tay, và dự định khi cô tìm ra con đường thoát khỏi nơi này, Jill sẽ quay lại đại sảnh chính và đợi Barry. Với thông tin trên máy tính của Trent, họ sẽ có thể tìm kiếm nhanh chóng và kỹ lưỡng hơn.

Cuối hành lang là hai cánh cửa đối diện với nhau. Cánh cửa bên phải là cái cô cần. Jill vặn thử tay nắm và được tưởng thưởng xứng đáng với một tiếng động nhỏ từ cái then cửa vang lên. Jill bước vào trong một hành lang tối tăm và nhìn thấy một con zombie, cái bóng vụng về, nhợt nhạt của nó đang đứng gần một cánh cửa cách đó khoảng mười bước. Khi Jill giương vũ khí lên, sinh vật đó bắt đầu tiến về phía cô, phát ra những tiếng đói khát từ đôi môi rữa nát của nó. Một cánh tay treo lủng lẳng bên hông, và mặc dù Jill có thể thấy xương của nó lởm chởm lòi ra khỏi vai, nó vẫn hăng hái giương tay ra với cánh tay còn lại.

“Cái đầu, ngắm vào cái đầu.”

Phát súng nổ lớn đến mức khó tin xé toạc không khí ảm đạm phát rùng mình, phát súng đầu tiên thổi bay bên tai trái của nó, phát thứ hai và thứ ba thì khoan hai lỗ trên hộp sọ của nó, ngay giữa cái trán xanh xao. Chất lỏng màu đen chảy đầm đìa xuống khuôn mặt đã tróc thành từng mảng, nó khuỵu xuống, đôi mắt vô hồn không còn chút sự sống lộn tròng vào phía trong.

Trong bóng tối phía sau hành lang về phía bên phải có chuyển động lê bước, đúng chỗ mà cô đang định đi đến. Jill chĩa súng vào bóng tối và đợi nó di chuyển lại gần hơn, cả cơ thể cô căng lên như dây đàn.

“Có tất cả bao nhiêu cái thứ như vậy ở đây thế nhỉ?”

Ngay khi con zombie hiện ra ở góc tường, cô bắt đầu bắn, khẩu Beretta giật nhẹ trong lòng bàn tay lấm tấm mồ hôi của cô. Phát thứ hai làm thủng mắt phải của nó và nó ngay lập túc đổ gục xuống sàn gỗ bóng láng, tối tăm, chất bầy nhầy, nhớp nháp của nhãn cầu bị văng ra dính lốm đốm trên khuôn mặt xương xẩu của nó.

Jill đợi, nhưng ngoài vũng máu chảy tràn ra xung quanh xác con vật, không một thứ gì chuyển động. Hít thở qua miệng để tránh cái mùi hôi thối đến kinh người, cô đi vội đến phía sau hành lang và rẽ phải, đi xuống một đoạn ngắn, cuối hành lang hẹp là một cái cửa sắt rỉ sét.

Nó kẽo kẹt mở ra và không khí trong lành tràn ngập người cô, ấm áp và sạch sẽ sau cái không khí lạnh lẽo như nhà xác của khu biệt thự. Jill cười, lắng nghe tiếng kêu đều đều của dế và ve sầu dưới bầu trời buổi đêm. Cô đã đến điểm đích cuối cùng của chuyến khảo sát, và mặc dù cô vẫn chưa đi ra phía ngoài nhưng tiếng động và mùi hương từ khu rừng đã khiến cô có cảm giác hoàn thành nhiệm vụ.

Giờ thì đã có con đường an toàn rồi, chạy thẳng ra phía sau biệt thự. Chúng ta sẽ có thể đi về phía bắc, đến khi bắt gặp một con đường dành cho những người đi đốn gỗ rồi sau đó có thể cuốc bộ đến hàng rào giới hạn...

Cô bước ra ngoài trên con đường đi bộ có mái che lát đá khảm màu xanh lá, bao xung quanh là tường bê tông. Có những khe hở hiện ra gần trần của con đường mòn, giải thích cho cái không khí ấm áp ở đây. Cây thường xuân lộ ra từ kẽ hở hình vòm như nhắc nhở người ta nhớ tới thế giới bên ngoài. Jill vội vàng đi xuống cái hành lang mờ tối, cô nhớ rằng theo như bản đồ thì có một căn phòng đơn ở phía bên phải, cuối hành lang, gần như chắc chắn là một kho dự trữ.

Quẹo ở góc tường và dừng lại trước một cánh cửa sắt khác trông có vẻ nặng nề, nụ cười của Jill hơi héo đi khi cô chạm vào tay nắm; lỗ khóa đã bị bít lại. Jill cúi người xuống và lấy ngón tay chọc vào cái lỗ bé tí, nhưng vô ích. Ai đó đã dùng chất đóng cứng để bịt nó lại. Bên trái cánh cửa là một thứ trông như biểu đồ làm bằng chất đồng đỏ xám xịt gắn trên lớp bê tông. Có bốn vết lõm hình lục lăng trên một tấm sắt phẳng, mỗi lỗ to bằng nắm tay và nối với lỗ bên cạnh bằng một đường mảnh. Jill liếc mắt xuống lời ghi chú khắc ở bên dưới và ước gì cô có được một chiếc đèn pin trong tay khi cô cố gắng đọc dòng chữ. Cô phủi lớp bụi mỏng khỏi mặt chữ được in lõm và thử đọc lại.

KHI MẶT TRỜI... LẶN Ở HƯỚNG TÂY VÀ MẶT TRĂNG MỌC LÊN TỪ HƯỚNG ĐÔNG, NHỮNG VÌ SAO SẼ BẮT ĐẦU XUẤT HIỆN TRÊN BẦU TRỜI... VÀ GIÓ SẼ THỔI HƯỚNG VỀ PHÍA MẶT ĐẤT. KHI ĐÓ CÁNH CỔNG CỦA CUỘC SỐNG MỚI SẼ MỞ RA.

Jill chớp mắt. Bốn cái lỗ - Danh sách của Trent! Bốn cái huy hiệu bằng đồng, và điều gì đó về cánh cổng của cuộc sống mới - đó là cơ chế kết hợp để mở cái khoá. Đặt bốn cái huy hiệu vào, cánh cửa sẽ mở ra... chỉ có điều là mình phải đi tìm chúng trước.

Jill đẩy thử cánh cửa và cảm thấy hoàn toàn thất vọng; đến một tiếng lách cách nhỏ cũng không có, chẳng được tích sự gì. Họ phải tìm ra một con đường khác để thoát ra, trừ khi là tìm được mấy cái huy hiệu - thứ mà có khi phải mất hàng năm trời mới tìm được ở một nơi như thế này.

Một tiếng chó tru đơn độc phát ra xa xăm và được phụ hoạ thêm bởi tiếng gào thét của lũ chó gần biệt thự, những âm thanh kỳ lạ, cao vút xé toạc bầu không khí yên tĩnh dịu dàng của khu rừng. Phải có hàng tá con ở ngoài kia, và Jill đột ngột nhận ra rằng việc trốn thoát ra khỏi toà nhà từ phía sau chưa chắc đã là ý hay. Số đạn còn lại của cô rất hạn chế và chắc hẳn còn không ít những sinh vật ghê tởm khác đang lang thang khắp các đại sảnh, lết đi trong cơn đói, tìm kiếm cho mình bữa ăn kinh khủng tiếp theo một cách lặng lẽ...

Cô thở dài nặng nề và bắt đầu quay lại ngôi nhà, nghĩ đến cái mùi hôi thối lạnh lẽo của cái chết mà rùng mình, cố gắng chuẩn bị sẵn tinh thần trước bất kỳ mối nguy cơ nào đang lẩn trốn trong các góc khuất của ngôi nhà.

Cả đội S.T.A.R.S. đã bị mắc kẹt.

Chris biết rằng anh phải tiết kiệm đạn, nên khi rời chỗ Rebecca, anh đi xuyên qua hành lang mờ tối và chạy thật nhanh, đôi giày của anh nện lộp cộp trên nền nhà bằng gỗ. Chỉ còn ba con, tất cả đều tập trung gần cầu thang. Anh lách qua chúng một cách dễ dàng và chạy nước rút tới hành lang rồi vòng qua góc tường. Ngay khi anh chạm tới cánh cửa mở ra một hành lang khác, anh rẽ và tạo tư thế như một xạ thủ kiểu cổ điển, nắm chặt cổ tay cầm súng, ngón tay đặt trên cò súng.

Từng con một loạng choạng lết qua góc tường, rên rỉ, nghiêng ngả. Chris ngắm thật cẩn thận, hít thở đều, tập trung tinh thần... Anh bóp cò, hai viên đạn trúng vào cái mũi đã bắt đầu hoại thư của con đầu tiên. Không dừng lại, anh tiếp tục bắn phát thứ ba vào giữa trán con zombie tiếp theo. Chất lỏng nhão nhoét phun lên tường sau lưng chúng trong khi mấy viên đạn rơi trên sàn gỗ.

Ngay khi chúng gục xuống sàn, anh thấy dấu hiệu của con thứ ba. Thêm hai phát súng nữa, đục lủng sọ con zombie, nó đổ sập xuống như một cái bị đựng đầy xương.

Chris hạ khẩu Beretta xuống, tràn đầy tự hào. Anh là một tay súng thiện xạ đẳng cấp cao, thậm chí còn có không ít giải thưởng về bắn súng, nhưng vẫn thật tuyệt khi thấy rằng anh có thể làm được những gì khi có đủ thời gian ngắm bắn. Tuy rằng tốc độ bắn của anh chưa phải là nhanh lắm, bắn nhanh là sở trường của Barry.

Anh chạm vào tay nắm cửa, đẩy thật mạnh, trong lúc đầu thì suy nghĩ về những mối đe doạ. Anh cho rằng đội Alpha có thể tự chăm sóc cho mình, họ cũng có từng ấy cơ hội mà anh đã có, nhưng đây là lần hành quân đầu tiên của Rebecca và cô ấy thậm chí còn chằng có súng; anh phải giúp cô thoát ra mới được.

Anh bước trở lại khu vực ánh sáng êm dịu của hành lang với giấy dán tường màu xanh lá cây, nhanh chóng kiểm tra cả hai hướng. Thẳng phía trước, hành lang tối hơn; không biết có an toàn không.

Phía bên phải là một cánh cửa với vết khắc hình thanh kiếm cạnh lỗ khoá, và con zombie đầu tiên bị anh bắn vẫn đang nằm dài ra không còn chút sinh khí nào trên sàn. Chris hài lòng khi thấy rằng nó không hề động đậy. Có vẻ như bắn vào đầu là cách tốt nhất để giết zombie, giống hệt như trong phim... Chris lách về phía cánh cửa có hình thanh kiếm trên lỗ khoá, chĩa súng về bên trái, bên phải, rồi lại bên trái; anh đã có quá đủ ngạc nhiên trong một ngày rồi. Anh kiểm tra và khi thấy rằng đã an toàn, anh nhanh chóng tra chiếc chìa khoá mỏng vào lỗ khoá.

Chìa khoá xoay một cách dễ dàng. Chris bước vào một căn phòng ngủ nhỏ, được chiếu sáng tốt hơn một chút so với hành lang, chỉ có một cái đèn duy nhất trên bàn cạnh góc tường. Không hề có một con quái vật nào, trừ khi là có con nào đấy đang nấp dưới gầm giường chật hẹp... hoặc có thể là trong cái tủ phía bên kia bàn.

Anh rùng mình, đóng cửa lại sau lưng. Đó là cảm giác của lần sợ hãi đầu tiên ở mọi đứa trẻ, và cũng là ở anh.

Những con quái vật nấp trong tủ rồi thứ gì đó đang sống dưới gầm giường, chỉ rình lúc nhìn thấy mắt cá chân của đứa trẻ bất cẩn thò xuống là vồ lấy.

“Mấy tuổi rồi mà còn...?”

Chris rũ bỏ trạng thái kích động, anh cảm thấy xấu hổ với trí tưởng tượng đang lang thang trong đầu mình. Anh bước một cách chậm rãi xung quanh phòng, tìm bất cứ thứ gì hữu ích. Không còn cánh cửa nào khác, không có đường quay lại đại sảnh chính, nhưng mà biết đâu anh lại tìm thấy một thứ vũ khí nào đấy cho Rebecca, ít ra thì cũng xịn hơn cái bình xịt côn trùng.

Trong căn phòng, bên cạnh cái bàn ăn làm bằng gỗ sồi và kệ sách, là một cái giường nhỏ, bừa bộn và một cái bàn làm việc, hết. Anh nhanh chóng lục đống sách, sau đó đi vòng qua chân giường đến cái bàn làm việc. Có một cái chiết áp nhỏ cạnh cái đèn bàn, một tấm vải không có hoa văn; một cuốn nhật ký. Và mặc dù mặt bàn phủ đầy bụi nhưng cuốn nhật ký lại được để ở đây mới đây thôi.

Tò mò, Chris cầm nó lên và thử lướt mắt qua vài trang. Biết đâu lại có manh mối giải thích chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây. Anh ngồi xuống mép giường và bắt đầu đọc.

Ngày 9 tháng 5 năm 1998

“Tối nay chơi bài xì phé với Scott cùng Alias ở phòng bảo vệ và Steve ở phòng nghiên cứu. Steve thắng lớn, nhưng mình nghĩ hắn chơi bẩn. Đúng là thứ cặn bã.”

Chris phì cười. Anh bỏ qua đọc tiếp đoạn sau và rồi nụ cười của anh đóng băng, tim anh như ngừng đập.

Ngày 10 tháng 5 năm 1998

“Cấp trên phân công mình tham gia một cuộc thí nghiệm. Trông con vật giống y như một con Gorilla bị lột da. Theo như hướng dẫn thì phải cho nó ăn sinh vật sống. Khi mình ném một con heo vào thì con Gorilla như đùa giỡn với nó rồi xé toạc chân con heo, kéo ruột nó ra trước khi bắt đầu ăn.

“Cuộc thí nghiệm? Không lẽ tác giả đang nói đến lũ zombie?”

Chris tiếp tục đọc, anh cảm thấy hứng thú với phát hiện của mình. Cuốn nhật ký rõ ràng là của một ai đó từng làm việc ở đây, và như thế có nghĩa là bức màn tội ác được che đậy thậm chí còn kinh khủng hơn cả những gì anh từng tưởng tượng.

Ngày 11 tháng 5 năm 1998

“Khoảng 5 giờ sáng, Scott đánh thức mình dậy. Làm mình sợ chết khiếp. Hắn ta mặc bộ đồ bảo hộ trông cứ như của phi hành gia vũ trụ. Hắn đưa cho mình một bộ khác và bảo mình mặc vào. Nói rằng có một tai nạn xảy ra ở phòng nghiên cứu dưới tầng hầm. Mình đã biết trước kiểu gì một vụ tương tự như thế này cũng sẽ xảy ra. Lũ khốn kiếp ở phòng nghiên cứu chưa bao giờ chịu nghỉ ngơi, kể cả vào ban đêm.”

Ngày 12 tháng 5 năm 1998

“Mình đã mặc bộ đồ không gian đáng ghét suốt từ hôm qua tới giờ. Da mình bắt đầu cáu ghét và ngứa ngáy toàn thân. Đã thế lũ chó đáng nguyền rủa lại còn nhìn mình như thể đang làm trò hề, nên mình quyết định hôm nay không cho chúng ăn nữa. Cho chúng mày chết.”

Ngày 13 tháng 5 năm 1998

“Phải lên phòng chữa bệnh vì lưng mình sưng phồng lên và rất ngứa. Họ dán băng thuốc lên lưng và bác sĩ bảo mình rằng không cần phải mặc bộ đồ không gian ấy nữa. Tất cả những gì mình muốn bây giờ là ngủ một giấc thật đã.”

Ngày 14 tháng 5 năm 1998

“Sáng nay lại thấy thêm một vết phồng rộp ở chân, làm mình phải kéo lê chân cả quãng đường ra đến chỗ chuồng chó. Cả ngày hôm nay chúng im lặng, thật là không bình thường chút nào. Thế rồi mình nhận ra một số trong bọn chúng đã trốn thoát. Ai mà phát hiện ra chuyện này thì mình tiêu mất.”

Ngày 15 tháng 5 năm 1998

“Ngày nghỉ đầu tiên sau một thời gian dài và mình cảm thấy đây đúng là một ngày tồi tệ. Tuy nhiên mình vẫn quyết định đến thăm Nancy, chỉ có điều khi mình định ra khỏi toà biệt thự thì bọn lính gác chặn mình lại. Chúng nó bảo là công ty đã có lệnh cấm ai rời khỏi khu vực này. Mình thậm chí còn không được phép gọi điện thoại - tất cả điện thoại đều bị bỏ đi! Luật lệ đếch gì thế này?”

Ngày 16 tháng 5 năm 1998

“Có tin đồn là một tay bên phòng nghiên cứu định tìm cách thoát khỏi ngôi biệt thự và đã bị bắn chết tối hôm qua. Cả cơ thể mình nóng nực và ngứa ran, người mình thì đổ mồ hôi liên tục. Mình gãi thử vào chỗ sưng tấy trên cánh tay thì thấy một miếng thịt rữa nát rớt ra. Trước khi mình nhận ra cái mùi khiến mình cảm thấy đói cồn cào thì mình đã bị ốm nặng.”

Nét chữ bắt đầu run rẩy. Chris lật trang, và anh khó có thể thấy rõ những dòng cuối, nét chữ nghuệch ngoạc bừa bãi khắp mặt giấy.

Ngày 19 tháng 5 năm 1998

“Cơn sốt đã qua nhưng vẫn còn ngứa. Đói quá và phải ăn cả thức ăn của chó. Ngứa. Ngứa. Scott đến thăm, cái bản mặt của hắn thật khó coi nên giết hắn luôn. Ngon thật. Ngứa. Ngon thật.”

Phần còn lại của trang giấy hoàn toàn trống không.

Chris đứng dậy và thả cuốn nhật ký vào túi áo, những suy nghĩ trong đầu anh bắt đầu rộn lên. Một số trong những mảnh ghép cuối cùng cũng đã khớp vào đúng vị trí của nó – “việc nghiên cứu bí mật tại một khu biệt thự được canh gác cẩn mật, vụ tai nạn xảy ra tại phòng thí nghiệm ẩn, một loại virus hay bệnh truyền nhiễm nào đó đã biến đổi những người làm việc ở đây, biến họ thành những con quái vật kinh tởm... và một số trong bọn họ đã thoát ra ngoài.”

Những vụ tấn công và giết người ở thành phố Raccoon này khởi đầu từ cuối tháng Năm, hoàn toàn khớp với thời điểm "vụ tai nạn" bắt đầu phát huy tác dụng; trật tự thật có ý nghĩa. Nhưng chính xác thì loại nghiên cứu nào đã được thực hiện ở đây, và Umbrella thì can thiệp sâu đến đâu vào vụ này?

“Liên quan gì đến Billy?”

Anh không muốn nghĩ đến chuyện này, nhưng khi anh đang cố giải thoát khỏi suy nghĩ ấy thì một suy nghĩ khác lại hiện ra... thế nhỡ nó vẫn còn lây nhiễm thì sao? Anh vội vã bước ra cửa, đột nhiên anh quyết định sẽ thông báo tin này cho Rebecca biết đã. Với học vấn của mình, có lẽ cô ấy có thể hình dung ra được cái gì đã bị giải phóng khỏi phòng nghiên cứu bí mật trong ngôi biệt thự.

Chris nuốt nước bọt một cách nặng nề. Vào lúc này, anh và những thành viên khác của đội S.T.A.R.S. rất có thể đã bị nhiễm bệnh mất rồi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.