Lúc này là mười giờ hơn, chúng tôi vẫn còn đang ở hiện trường vụ giết người man rợ, gây chấn động khủng khiếp này. Ánh đèn pha màu hổ phách sáng chói của xe công vụ và xe cấp cứu được sử dụng để chiếu sáng một con đường mòn vào khu rừng tối tăm. Bên ngoài trời trở nên lạnh hơn. Gió đêm lạnh buốt táp đầy sạn cát vào mặt.
Xác chết vẫn chưa được chuyển đi.
Tôi nhìn những kỹ thuật viên của Cục cần mẫn lục soát kỹ quanh rừng, thu thập đầu mối pháp y và lấy số đo. Khu vực có liên quan đã bị cô lập, nhưng tôi đã nhanh tay ghi chép vài nét chính trong ánh trăng lờ mờ. Tôi cố gắng hết sức nhớ về một Casanova nguyên bản. Một nhà phiêu lưu mạo hiểm, nhà văn, kẻ trụy lạc thế kỷ mười tám. Tôi đã có lúc đọc vài phần trong hồi ký của ông ta.
Đâu là lý do sâu xa khiến kẻ sát nhân lại chọn cái tên này? Hắn tin rằng mình thật sự yêu phụ nữ chăng? Liệu đây có phải cách hắn thể hiện điều đó?
Chúng tôi nghe thấy tiếng chim thét lên kinh hoàng đâu đó, và tiếng của các loài vật nhỏ xung quanh. Không ai nghĩ về Bambi trong khu rừng. Nhất là trong cảnh tượng vụ giết người khủng khiếp này.
Vào khoảng mười giờ rưỡi đến mười một giờ, chúng tôi nghe thấy một tiếng gầm to như sấm trong rừng. Mọi ánh mắt đều lo lắng ngước nhìn lên bầu trời xanh đen.
“Giai điệu quen thuộc,” Sampson nói sau khi thấy ánh sáng lập lòe của một chiếc trực thăng đi từ hướng Đông Bắc đến.
Tôi nói, “Có lẽ cuối cùng máy bay cứu thương cũng đến mang cái xác đi.”
Một chiếc trực thăng màu xanh sẫm sọc vàng xoay vài vòng rồi hạ xuống con đường cao tốc rải nhựa. Người lái chiếc máy bay này chắc hẳn là một tay chuyên nghiệp thực thụ.
“Không phải máy bay cứu thưong đâu,” Sampson nói “trông có vẻ giống Mick Jagger[1] hơn. Những ngôi sao lớn mới đi trong những chiếc trực thăng thế này.”
[1] Ca sĩ hát chính của nhóm nhạc rock Rolling Stones.
Joyce Kinney và Giám đốc Cục phụ trách khu vực tiến về phía đường cao tốc. Sampson và tôi theo sau họ như những vị khách không mời.
Ngay lập tức chúng tôi bị sốc khi nhận ra người đàn ông cao ráo, trán hói, nhìn khá khệnh khạng từ trực thăng bước xuống.
“Ông ta xuống đây làm cái quái gì thế nhỉ?” Sampson thốt lên. Tôi cũng có cảm giác băn khoăn lo lắng như vậy. Đó là phó giám đốc FBI. Người đàn ông quyền lực thứ hai, Ronald Burns. Burns đích thị là chuyên gia gây khó của Cục, một kẻ nhiễu sự bậc nhất.
Chúng tôi đều biết Burns từ vụ “tranh chấp quyền tài phán” mới đây của chúng tôi. Ông ta bị cho là có mưu đồ chính trị, một kẻ xấu trong nội bộ Cục, nhưng với tôi thì không giống vậy. Sau khi nhìn thấy cái xác, ông ta yêu cầu được nói chuyện với tôi. Mọi chuyện càng lúc càng trở nên kỳ lạ hơn ở California này.
Burns muốn nói chuyện với chúng tôi ở nơi khác để tránh đám nhân viên thiển cận mà tọc mạch của ông ta.
Ông ta nói, “Alex à, tôi rất tiếc khi nghe tin cháu gái anh có thể đã bị bắt cóc. Và tôi hy vọng nó không liên quan đến vụ án lần này. Vì anh đã đến tận đây rồi, anh có thể giúp chúng tôi phá vụ này không?”
Tôi nhảy thẳng tới câu hỏi trị giá sáu mươi tư nghìn đôla. “Có thể cho tôi hỏi tại sao ông xuống đây không?”
Burns mỉm cười, để lộ chiếc răng cửa trắng sáng. “Tôi thực sự hy vọng anh chấp nhận lời đề nghị của chúng tôi về vị trí ở VICAP[2]”.
[2] Violent Criminal Apprehension Program: Chương trình nghiên cứu tội phạm bạo lực.
Tôi đã từng được mời làm sĩ quan liên lạc giữa Cục và cảnh sát D.C. sau vụ bắt cóc Soneji. Burns là một trong những người đã phỏng vấn tôi.
“Tôi đề cao sự thẳng thắn hơn bất kỳ phẩm chất nào khác đối với một sĩ quan cao cấp,” Burns tiếp tục.
Tôi vẫn chờ câu trả lời cho câu hỏi thẳng thắn của mình.
Cuối cùng, Burns cũng đáp, “Tôi không thể cho anh biết nhiều như anh muốn. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi không biết cháu của anh có bị tên Johnny bệnh hoạn bắt cóc hay không. Hắn thường để lại rất ít dấu vết xác thực, Alex. Hắn ta cẩn thận, và xử lý mọi việc rất cáo.”
“Tôi cũng có nghe rồi. Điều đó khiến chúng ta khoanh vùng nghi phạm một cách rõ ràng. Cảnh sát, cựu chiến binh, những người không chuyên nghiên cứu về cảnh sát. Dù vậy, cũng có thể hắn đang đánh lạc hướng chúng ta. Có lẽ hắn muốn chúng ta nghĩ như vậy.”
Burns gật đầu. “Tôi ở đây vì vụ này được ưu tiên hàng đầu. Lớn đấy, Alex. Vào thời điểm này, tôi không thể nói với anh tại sao. Nhưng nó được xếp vào loại lớn đấy.” Nói cứ như một sếp FBI thực thụ. Những bí mật được che đậy bởi nhiều bí mật khác.
Burns thở dài. “Tôi sẽ nói với anh một điều. Chúng tôi tin rằng hắn là một kẻ sưu tập. Chúng tôi nghĩ hắn giữ vài người phụ nữ bên cạnh... có lẽ là một hậu cung riêng. Hậu cung của riêng hắn.”
Thật là một điều đáng sợ, đáng sửng sốt. Nó đồng thời cũng cho tôi hy vọng rằng Naomi vẫn còn sống.
“Tôi muốn điều tra vụ này,” tôi nhìn thẳng vào mắt Burns mà nói. “Tại sao ông không cho tôi biết tất cả?” tôi đưa ra điều kiện. “Tôi cần xem toàn bộ các bức ảnh trước khi đưa ra bất cứ giả thuyết nào. Nếu đó là những gì hắn đang làm thì tại sao hắn không bắt cóc những người phụ nữ khác?”
“Alex, vào thời điểm này tôi thật sự không thể nói với anh nhiều hơn. Tôi rất tiếc.” Burns lắc đầu và nhắm mắt trong giây lát. Tôi nhận ra ông ta đã quá mệt mỏi.
“Nhưng chắc hẳn ông muốn biết ý kiến của tôi về thuyết sưu tập của ông chứ?”
“Tôi muốn chứ,” Burns thừa nhận, và cuối cùng cũng mỉm cười.
“Có thể là một hậu cung hiện đại, tôi đoán vậy. Chứng hoang tưởng phổ biến của giới đàn ông,” tôi nói với ông ta. “Kỳ lạ rằng, đó cũng là chứng hoang tưởng phổ biến của phụ nữ. Cũng không loại trừ khả năng đó.”
Burns ghi chú những gì tôi vừa nói và ngừng lại ở đó. Ông ta lại yêu cầu tôi giúp đỡ, nhưng vẫn không muốn chia sẻ với tôi tất cả những gì mà ông ta biết. Cuối cùng ông ta quay lại chỗ các nhân viên của mình.
Sampson đến bên cạnh tôi. “Điều gì đã làm Ngài Cứng Rắn nói ra vậy? Điều gì mang ông ta đến khu rừng khủng khiếp này với chúng ta?”
“Ông ta nói vài điều nghe không thú vị lắm. Rằng Casanova có thể là một nhà sưu tập, có thể tạo ra hậu cung của riêng mình ở đâu đó gần đây.” Tôi nói với Sampson. “Ông ta bảo vụ này rất lớn. Ông ta chọn ngôn từ như vậy đấy.”
“Lớn” có nghĩa là vụ việc rất tồi tệ, có thể còn tồi tệ hơn bề ngoài. Tôi tự hỏi lẽ nào lại như vậy, và gần như không muốn biết câu trả lời.