Ơn trời, Honoria không dành cả ngày hôm sau của cuộc đời cô để vật vã với nụ hôn ngắn ngủi giữa cô và Marcus.
Thay vào đó, cô ngủ.
Mất một đoạn ngắn để đi từ phòng ngủ của Marcus đến phòng cô, vì vậy cô quyết tâm đặt nhiệm vụ cụ thể cho mình -- đó là đặt một chân lên trước chân còn lại và tiếp tục thẳng tiến đến phòng ngủ của mình. Và một khi cô đến được phòng ngủ, cô nằm lên giường và không đứng dậy nữa trong hai-mươi-bốn tiếng đồng hồ.
Nếu cô nằm mơ, cô cũng không nhớ mình mơ thấy gì.
Khi cuối cùng cô cũng thức dậy thì trời đã sáng, cô vẫn đang mặc cùng cái váy cô đã mặc – cách đây bao nhiêu ngày nhỉ? – ở London. Theo trình tự thì có vẻ như là một bồn tắm, thay một bộ váy mới, và rồi dĩ nhiên là bữa sáng, cô đã vui vẻ nài nỉ bà Wetherby tham gia cùng mình trên bàn ăn và nói với bà đủ thứ chuyện trên trời dưới đất mà không hề có liên quan gì đến Marcus.
Món trứng thì ngon tuyệt, cũng như món thịt xông khói, và hoa tú cầu bên ngoài cửa sổ thì vô cùng đẹp đẽ.
Hoa tú cầu đấy. Ai có thể tưởng tượng được cơ chứ?
Tóm lại, cô không những tránh Marcus mà còn cả những suy nghĩ về anh khá tốt cho đến khi bà Wetherby hỏi: “Cô đã đến thăm đức ngài sáng nay chưa?”
Honoria dừng lại, cái bánh nướng xốp dừng lại giữa chừng đến miệng cô, “Ơ, chưa,” cô nói. Bơ từ cái bánh chảy xuống ngón tay cô. Cô để nó xuống và lau ngón tay.
Và rồi bà Wetherby nói, “Tôi chắc là ngài ấy rất muốn gặp cô.”
Điều đó có nghĩa là Honoria phải đi. Sau khoảng thời gian và cố gắng cô đã bỏ ra để chăm sóc anh khi anh bị sốt cao, thì sẽ rất lạ lùng nếu như cô chỉ đơn giản vẫy tay và nói, “Ồ, tôi chắc là anh ấy ổn thôi.”
Đoạn đường từ phòng ăn sáng đến phòng Marcus mất khoảng ba phút, đó là ba phút dài hơn cô muốn bỏ ra để suy nghĩ về nụ hôn ba giây của họ.
Cô đã hôn bạn thân của anh trai mình. Cô đã hôn Marcus…người mà, cô cho là, cũng đã trở thành một trong những người bạn thân của chính cô.
Và điều đó đã ngăn dòng suy nghĩ của cô lại ngắn ngủi như nụ hôn kia. Sao điều đó lại xảy ra? Marcus vẫn luôn là bạn của Daniel, không phải của cô. Hay đúng hơn là, đầu tiên là bạn của Marcus, rồi mới là bạn của cô. Điều mà không nói lên–
Cô dừng lại. Cô đang làm mình choáng váng.
Ôi, phiền quá. Anh thậm chí có thể không nghĩ về nó đến một lần. Có lẽ anh vẫn còn hơi mê sảng. Có lẽ anh thậm chí còn không nhớ nổi.
Đó có thể được xem là một nụ hôn không? Đó là một nụ hôn rất, rất ngắn. Và liệu có phải điều đó có nghĩa là bất kì điều gì nếu người hôn ( anh ) đã cảm thấy cực kì biết ơn người bị hôn ( cô ) và thậm chí có thể thấy mắc nợ, trong những giả thuyết có thể nhất không?
Dù sao thì cô đã cứu mạng anh. Một nụ hôn cũng không hoàn toàn nằm ngoài lễ nghi.
Thêm nữa, anh đã nói, “Tha thứ cho anh.” Có thể tính đó là một nụ hôn không nếu người hôn cầu xin tha thứ.
Honoria nghĩ là không.
Tuy nhiên, điều cuối cùng cô muốn đó là nói chuyện với anh về điều đó, vì vậy khi bà Wetherby bảo anh vẫn còn ngủ khi bà đi kiểm tra anh, cô quyết định thực hiện chuyến viếng thăm nhanh hết sức có thể trước khi anh thức giấc.
Cánh cửa phòng anh hơi hé mở, nên cô đặt lòng bàn tay chạm vào tấm gỗ sậm màu và chầm chậm đẩy nó ra. Thật khó hiểu khi một căn nhà được quản lí tốt như Fensmore có thể có một cái bản lề cũ kĩ trên mấy cánh cửa, nhưng một người không thể lúc nào cũng quan tâm quá nhiều được. Khi cô mở hé cửa đủ cho một cái đầu lọt qua, cô thò đầu vào, xoay cổ để cô có thể nhìn thấy anh, và—
Anh quay qua và nhìn cô.
“Ô, anh dậy rồi!” Lời nói bật ra khỏi miệng cô như tiếng kêu của một con chim nhỏ bị giật mình.
Phải gió thật.
Marcus đang ngồi trên giường, chăn mền được nhét gọn gàng quanh eo của anh, Honoria nhẹ nhõm nhận ra cuối cùng anh cũng mặc một cái áo ngủ.
Anh giơ quyển sách lên. “Anh đang cố đọc sách.”
“Ô, vậy em sẽ không làm phiền anh,” cô nói nhanh, mặc dù giọng của anh rõ ràng có ý là Anh-đã-cố-gắng-đọc-nhưng-anh-không-thể-nhập-tâm-được.
Rồi cô khẽ nhún gối chào.
Nhún gối chào!
Tại cái quái gì mà cô lại nhún gối chào cơ chứ? Cô chưa bao giờ nhún gối chào Marcus trong cuộc đời cô. Cô có gật đầu, và thậm chí cô có nhún nhẹ đầu gối, nhưng trời ơi, anh sẽ cười nghiêng ngả nếu cô nhún gối chào anh. Thực tế, anh đã hoàn toàn bật cười tại lúc đó. Nhưng cô sẽ không bao giờ biết, vì cô đã bỏ chạy trước khi anh kịp phát ra tiếng nào.
Dẫu vậy, khi cô gặp mẹ cô và bà Wetherby trong phòng khách sau đó, cô có thể hết sức trung thực mà nói rằng cô đã thăm Marcus và cô thấy anh khá là cải thiện.
“Anh ấy thậm chí còn đang đọc sách,” cô nói, nghe có vẻ bình thường một cách tuyệt vời. “Đó ắt hẳn là một dấu hiệu tốt.”
“Cậu ấy đang đọc gì?” mẹ cô hỏi lịch sự, nghiêng người về trước để đổ trà vào tách của bà.
“Eh um…” Honoria chớp mắt, không nhớ được gì hết ngoài cái bìa da màu đỏ đậm của cuốn sách. “Thật sự thì con đã không chú ý lắm.”
“Chúng ta chắc chắn nên mang cho cậu ấy thêm nhiều sách nữa để chọn,” quý bà Windstead nói, đưa cho Honoria tách trà của bà. “Nóng đấy,” bà cảnh báo. Rồi bà tiếp tục. “Thật là buồn chán muốn chết khi nằm liệt trên giường. Mẹ nói từ kinh nghiệm đấy. Mẹ đã ở cử bốn tháng trên giường khi mẹ mang thai con, và ba tháng với Charlotte.
“Con đã không biết.”
Quý bà Windstead phủi nó đi. “Không có chuyện gì để làm với nó cả. Đâu phải như thể mẹ có sự lựa chọn. Nhưng mẹ có thể nói với con rằng những quyển sách tuyệt đối đã cứu lấy sự minh mẫn của mẹ. Người ta có thể đọc sách hoặc thêu thùa, và mẹ không nghĩ Marcus có thể nhận ra một cây kim và một sợi chỉ.
‘Không,” cô đồng ý, mỉm cười với ý nghĩ đó.
Mẹ cô nhắp một ngụm trà khác. “Con nên nghiên cứu thư viện và xem xem con có thể tìm được thứ gì cho cậu ấy. Cậu ấy có thể có cuốn tiểu thuyết của mình khi chúng ta rời đi.” Bà đặt tách trà xuống. “Mẹ đã đọc một cuốn của Sarah Gorely. Mẹ hầu như đã đọc hết cuốn đó. Cho tới giờ nó vẫn thật phi thường.”
“Quý cô Butterworth và ngài Nam tước điên?” Honoria ngờ vực hỏi. Cô cũng đã đọc cuốn đó, và thấy rằng cuốn sách đó có tính giải trí cao, nhưng nó hầu như cường điệu quá mức, cô không thể hình dung được Marcus sẽ thích nó. Nếu Honoria nhớ chính xác, có quá nhiều vụ treo cổ trên vách đá, trên cây, và trên gờ cửa sổ. “Mẹ không nghĩ anh ấy sẽ thích thứ gì đó nghiêm túc hơn à?”
“Mẹ chắc chắn cậu ấy nghĩ mình sẽ thích thứ gì đó nghiêm túc. Nhưng cậu bé đó đã vượt xa sự nghiêm túc rồi. Cậu ấy cần nhiều nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống.”
“Anh ấy hầu như không còn là một cậu bé nữa.”
“Cậu ấy sẽ mãi là một cậu bé đối với mẹ.” Quý bà Winstead quay qua bà Wetherby, người đã im lặng suốt cuộc trò chuyện. “Bà có đồng ý không?”
“Ồ, thật sự vậy,” bà Wetherby đồng ý. “Nhưng dĩ nhiên tôi đã biết ngài ấy từ khi ngài ấy còn mang tã.”
Honoria chắc rằng Marcus sẽ không bằng lòng với cuộc trò chuyện này.
“Có lẽ con có thể chọn vài cuốn sách cho cậu ấy, Honoria,” mẹ cô nói. “Mẹ chắc rằng con biết sở thích của cậu ấy tốt hơn mẹ.”
“Thật ra thì con không chắc là con biết,” Honoria nói, nhìn xuống tách trà của cô. Vì vài lí do điều đó làm cô phiền muộn.
“Chúng tôi có một thư viện tổng hợp ở đây tại Fensmore,” bà Wetherby nói với niềm tự hào.
“Tôi chắc tôi có thể tìm được gì đó,” Honoria nói, dán một nụ cười rạng rỡ lên mặt.
“Con sẽ tìm được thôi,” mẹ cô nói, “trừ khi con muốn dạy cậu ấy thêu thùa.”
Honoria bắn cho mẹ cô một cái nhìn hoảng sợ, rồi nhìn thấy nét cười trong mắt bà. “Ồ, con có thể tưởng tượng không?” quý bà Windstead cười khúc khích khi nói. “Mẹ biết có nhiều người đàn ông làm thợ may rất giỏi, nhưng mẹ chắc là có cả một đội quân các phụ nữ may vá ẩn núp trong những căn phòng phía sau của họ.”
“Ngón tay của họ qua to,” bà Wetherby nói. “Họ không thể cầm kim cho đúng được.”
“Chà, cậu ấy không thể nào tệ hơn Margaret được đâu.” Quý bà Windstead quay qua bà Wetherby và giải thích, “Đứa con gái lớn nhất của tôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất kì ai có ít kĩ năng với một cây kim như nó.”
Honoria nhìn qua mẹ cô với sự thích thú. Cô chưa bao giờ nhận ra rằng Margaret dở tệ việc may vá. Nhưng rồi, Margaret đã mười bảy tuổi lớn hơn cô rất nhiều. Chị ấy đã kết hôn và rời khỏi nhà Smythe – Smith trước khi Honoria đủ lớn để có nhớ được gì.
“Điều đáng mừng là con bé có tài năng với đàn vĩ cầm,” quý bà Windstead tiếp tục.
Honoria ngẩng lên đột ngột tại chỗ đó. Cô đã nghe Margaret chơi đàn. “Tài năng” không phải là từ cô dùng để diễn tả điều đó.
“Tất cả các con gái của tôi đều chơi vĩ cầm,” quý bà Windstead nói với niềm tự hào.
“Kể cả cô sao, quý cô Honoria?” Bà Wetherby hỏi.
Honoria gật đầu. “Kể cả tôi.”
“Tôi ước gì cô có mang theo nhạc cụ. Tôi muốn được nghe cô chơi đàn.”
“Tôi không chơi giỏi như chị Margaret đâu,” Honoria nói. Thật bi kịch là điều đó đúng.
“Ồ, đừng có ngốc thế,” mẹ cô nói, vỗ nhẹ lên cánh tay cô. “Mẹ nghĩ con đã làm rất tốt vào năm rồi. Con chỉ cần tập luyện thêm một chút nữa thôi.” Bà quay lại với bà Wetherby. “Gia đình chúng tôi tổ chức nhạc hội mỗi năm. Đó là một trong những lời mời được chờ đón nhất trong thành phố.”
“Thật là quý báu khi đến từ một gia đình âm nhạc như vậy.”
“Ồ,” Honoria nói, bởi vì cô không chắc cô có thể xoay xở để nói thứ gì đó khác hơn. “Vâng.”
“Ta hi vọng các chị em họ của con đang luyện tập trong khi con vắng mặt,” mẹ cô nói với một biểu hiện lo lắng.
“Con không chắc là họ có thể,” Honoria nói. “Đó là một bộ tứ. Một bộ tứ không thể thực sự luyện tập được nếu vắng đi người chơi vĩ cầm.”
“Ừ, mẹ cho là vậy. Chỉ là Daisy còn quá non tay.”
“Daisy?” Bà Wetherby hỏi.
“Cháu gái của tôi,” quý bà Windstead giải thích. “Con bé hơi nhỏ tuổi và” – giọng bà nhỏ dần thành tiếng thì thầm, mặc dù trong suốt cuộc đời của mình, Honoria không thể tìm ra lí do tại sao –“ con bé không có tài cho lắm.”
“Ôi, trời,” bà Wetherby thở hổn hển, một tay bà đặt lên ngực. “Cô sẽ làm bất kì điều gì chứ? Buổi hòa nhạc của cô sẽ hỏng bét.”
“Tôi khá chắc chắn Daisy sẽ theo kịp tất cả chúng tôi.” Honoria nói với một nụ cười yếu ớt. Thành thật mà nói, Daisy rất tệ. Nhưng thật khó mà tưởng tượng được con bé sẽ làm cho bộ tứ tệ hơn. Và con bé sẽ mang lại một ít nhiệt tình cần thiết cho nhóm. Sarah vẫn tuyên bố rằng con bé thà bị nhổ răng còn hơn là biểu diễn với bộ tứ lần nữa.
“Đức ngài Chatteris có bao giờ tham gia buổi hòa nhạc không?” Bà Wetherby hỏi.
“Ồ, cậu ấy đến hằng năm,” quý bà Windstead trả lời. “Và ngồi ở hàng ghế đầu.”
Anh ấy là một vị thánh, Honoria nghĩ. Ít nhất là một đêm trên một năm.
“Ngài ấy yêu âm nhạc,” bà Wetherby nói.
Một vị thánh. Thậm chí là một kẻ tử vì đạo.
“Tôi cho là cậu ấy sẽ bỏ lỡ buổi hòa nhạc năm nay,” quý bà Windstead nói với tiếng thở dài buồn bã. “Có lẽ chúng ta có thể sắp xếp các cô gái đến đây cho một buổi hòa nhạc đặc biệt.”
“Không!” Honoria la lên, đủ lớn để cả hai người phụ nữ quay lại nhìn cô. “Ý con là, anh ấy sẽ không thích vậy đâu, con bảo đảm đấy. Anh ấy không thích mọi người phải nhọc lòng vì mình.” Cô có thể nhìn thấy từ biểu hiện của mẹ cô rằng bà không thấy điều này là một lý lẽ thuyết phục, vì vậy cô thêm vào, “Và Iris đi lại không tốt lắm.”
Một lời nói dối rành rành, nhưng nó là thứ tốt nhất cô có thể nhanh chóng nghĩ ra.
“Chà, mẹ nghĩ vậy,” mẹ cô thừa nhận. “Nhưng luôn luôn có năm tiếp theo.” Rồi, với một tia sáng hoang mang trong mắt, bà nói thêm, “Mặc dù con sẽ không chơi nữa, mẹ chắc chắn.” Khi thật rõ ràng là bà phải giải thích, bà quay qua bà Wetherby và nói, “Mỗi cô gái nhà Smythe – Smith phải rời khỏi bộ tứ khi kết hôn. Đó là truyền thống.”
“Cô đã đính hôn rồi à, quý cô Honoria?” Bà Wetherby hỏi, mày bà nhăn lại vì bối rối.
“Không,” Honoria trả lời, “và tôi—“
“Ý con bé muốn nói là,” mẹ cô xen vào, “chúng tôi hi vọng con bé sẽ đính hôn vào cuối mùa vũ hội.”
Honoria chỉ có thể nhìn chằm chằm. Mẹ cô đã không thể hiện quyết tâm hay chiến lược của bà trong suốt hai mùa vũ hội đầu của cô.
“Mẹ hi vọng chúng ta không quá muộn cho bà Brovard,” mẹ cô trầm ngâm.
Bà Brovard? Người may trang phục độc nhất ở London? Honoria choáng váng. Chỉ một vài ngày trước mẹ cô bảo cô đi mua sắm với chị họ Marigold và “tìm thứ gì đó màu hồng”. Bây giờ bà muốn Honoria đi gặp bà Brovard sao?
“Bà ấy sẽ không sử dụng một loại vải hai lần nếu nó không thật sự đăc biệt,” mẹ cô đang giải thích cho bà Wetherby. “Đó là lí do tại sao bà ấy được xem là thợ may tốt nhất.”
Bà Wetherby gật đầu tán thưởng, rõ ràng là đang thích thú với cuộc trò chuyện.
“Nhưng mặt hạn chế là nếu người ta gặp bà ấy quá trễ trong mùa vũ hội” – quý bà Windstead giơ tay theo kiểu chấp nhận số phận –“những loại vải tốt sẽ không còn.”
“Ôi, thật khủng khiếp,” bà Wetherby trả lời.
“Tôi biết. Tôi biết. Và tôi muốn chắc chắn rằng chúng ta sẽ tìm được những màu thích hợp với Honoria trong năm nay. Để làm nổi bật đôi mắt của con bé, bà biết mà.”
“Mắt cô ấy rất đẹp,” bà Wetherby đồng ý. Bà quay qua Honoria. “Thật đấy.”
“Ơ, cảm ơn,” Honoria tự động nói. Thật lạ lùng, nhìn thấy mẹ cô hành động giống như…chà, giống bà Royle, hoàn toàn trung thực. Thật bối rối. “Con nghĩ bây giờ con sẽ đến thư viện,” cô thông báo. Hai người phụ nữ lớn tuổi đã tham gia vào một cuộc thảo luận hăng say về sự khác biệt giữa màu tím oải hương và màu xanh tím. [ màu hoa của cây dừa cạn ]
“Vui vẻ nhé con yêu,” mẹ cô nói mà thậm chí còn không nhìn cô. “Tôi nói với bà này, bà Wetherby, nếu bà có một màu xanh tím nhạt hơn…”
Honoria chỉ lắc đầu. Cô cần một quyển sách. Hay có lẽ là một giấc ngủ ngắn. Và một miếng bánh. Không cần thiết phải theo thứ tự.
Bác sĩ Winters ghé qua vào trưa hôm đó và tuyên bố rằng Marcus đang phục hồi rất tốt. Cơn sốt đã biến mất hoàn toàn, chân của anh đang lành lại một cách kì diệu, và thậm chí cả cái cổ chân bị trật – cái mà tất cả họ đều đã quên mất – cũng không còn dấu hiệu bị sưng.
Với mạng sống của Marcus không còn gặp nguy hiểm, quý bà Windstead thông báo bà và Honoria sẽ thu dọn đồ đạc và đi đến London ngay lập tức. “Thật ra thì rất không đúng quy tắc khi thực hiện chuyến đi này,” quý bà Windstead nói riêng với Marcus. “Ta e rằng là sẽ có một cuộc trò chuyện nói đến mối liên hệ trước đó của chúng ta và tình hình sức khỏe bất ổn của cậu, nhưng chúng ta đều biết giới quý tộc sẽ không khoan dung nếu chúng tôi nán lại đây.”
“Dĩ nhiên,” Marcus lẩm bẩm. Thật sự như vậy là tốt nhất. Anh còn hơn cả buồn chán và sẽ nhớ lúc họ ở đây, nhưng mùa vũ hội sẽ sớm bắt đầu, và Honoria cần quay lại London. Cô là con gái chưa kết hôn của một bá tước và vì vậy cô cần tìm một người chồng thích hợp; đâu còn nơi nào khác dành cho cô vào khoảng thời gian này trong năm.
Anh cũng sẽ phải đi, để giữ lời thề với Daniel và bảo đảm cô không kết hôn với một thằng ngốc, nhưng anh bị mắc kẹt trên giường – theo yêu cầu của bác sĩ – và sẽ ở đây ít nhất là một tuần nữa. Sau đó anh sẽ bị giữ chân trong nhà thêm một tuần, có thể là hai, cho đến khi bác sĩ Winters tự tin rằng anh hết bị nhiễm trùng. Quý bà Windstead bắt anh phải hứa sẽ làm theo lời hướng dẫn của bác sĩ.
“Chúng tôi không cứu mạng cậu để cậu hủy hoại nó,” bà bảo anh.
Sẽ là gần một tháng trước khi anh có thể theo họ đến thành phố. Không hiểu sao anh lại thấy bực bội.
“Honoria ở đâu ạ?” anh hỏi quý bà Windstead, mặc dù anh biết tốt hơn hết là không nên hỏi han về một quý cô chưa chồng với mẹ của cô ấy – thậm chí với cả hai người họ. Nhưng anh chán quá. Và anh nhớ sự bầu bạn của cô.
Điều đó hoàn toàn không giống với việc nhớ cô.
“Một lúc trước chúng tôi mới uống trà,” quý bà Windstead nói. “Con bé nhắc đến việc nó nhìn thấy cậu lúc sáng nay. Tôi nghĩ con bé định tìm vài cuốn sách cho cậu trong thư viện. Ta hình dung con bé sẽ ở đây vào buổi chiều để mang sách đến.”
“Cháu rất cảm kích điều đó. Cháu hầu như đã đọc xong…” Anh ngó qua cái bàn bên cạnh giường. Anh đã đọc gì nhỉ? “Các câu hỏi triết học về bản chất tự do của con người.”
Bà nhướng mày. “Cậu có thích nó không?”
“Không nhiều lắm, không.”
“Vậy ta sẽ bảo Honoria nhanh chóng mang mấy cuốn sách đến,” bà nói với một nụ cười thích thú.
“Cháu trông đợi nó đây,” anh nói. Anh cũng bắt đầu mỉm cười, rồi anh nhận ra mình cười và trưng ra bộ mặt nghiêm túc hơn.
“Ta chắc con bé cũng vậy,” quý bà Windstead nói.
Điều này Marcus không chắc lắm. Nhưng mà, nếu Honoria không nhắc đến nụ hôn đó, thì Marcus cũng sẽ không. Thật sự thì chuyện đó không quan trọng lắm. Hoặc nếu không, thì nó cũng nên như vậy. Dễ dàng quên đi. Họ sẽ quay lại với tình bạn ngày xưa ngay lập tức.
“Ta nghĩ con bé vẫn còn mệt,” quý bà Windstead nói, “mặc dù ta không thể hình dung được là tại sao. Con bé ngủ suốt hai-mươi-bốn tiếng đồng hồ, cậu có biết chuyện đó không?”
Anh không biết.
“Con bé không rời khỏi cậu cho đến khi cơn sốt giảm đi. Ta yêu cầu được thế chỗ, nhưng con bé không chịu.”
“Cháu nợ cô ấy rất nhiều,” Marcus nói nhẹ nhàng. “Và cả bà nữa, từ những gì cháu biết.”
Trong một lúc quý bà Windstead không nói gì. Nhưng rồi môi bà hé ra, như thể bà đang cân nhắc có nên nói không. Marcus chờ đợi, biết rằng im lặng thường là sự động viên tốt nhất, và một vài giây sau, quý bà Windstead nuốt xuống và nói. “Chúng tôi sẽ không đến Fensmore nếu Honoria không nài nỉ.”
Anh không chắc phải nói gì.
“Ta bảo với con bé là chúng ta không nên đến, điều đó không thích hợp, vì chúng ta không phải là gia đình.”
“Cháu không có gia đình,” anh nói nhẹ nhàng.
“Ừ, đó là những gì Honoria nói.”
Lúc đó anh cảm thấy đau nhói kì lạ. Dĩ nhiên Honoria biết anh không có gia đình, mọi người đều biết. Nhưng vì lí do nào đó, nghe cô nói thế, hoặc chỉ là nghe người khác bảo với anh là cô nói thế…
Đau đớn. Chỉ một chút thôi. Nhưng anh không hiểu tại sao.
Honoria đã nhìn thấy nhiều hơn tất cả những điều đó, qua sự cô đơn và trong sự cô đơn của anh. Cô nhìn thấy nó – không, nhìn thấy anh – theo một cách mà anh không hiểu được.
Anh đã không nhận ra rằng anh sống đơn độc như thế nào trước khi cô tình cờ quay lại cuộc sống của anh.
“Con bé cứ khăng khăng,” quý bà Windstead nói, cắt ngang những suy nghĩ của anh. Và rồi, thật yên lặng anh nghe bà nói: “Ta chỉ nghĩ là cậu nên biết.”