Dẫn nhập
Nhà giả kim cầm lên một quyển sách mà ai đấy trong đoàn người đã mang đến. Lật qua những trang sách, ông ta thấy câu chuyện về Narcissus.
Nhà giả kim biết về huyền thoại của Narcissus, một chàng trai trẻ hàng ngày quỳ bên một hồ nước để trầm tư về vẽ đẹp của chính mình. Anh ta quá say mê về mình, một buổi sáng nọ, chàng trai rơi vào hồ nước và chết đuối. Nơi chàng ngã xuống, một bông hoa được sinh ra, và được gọi là narcissus – hoa thủy tiên.
Nhưng không phải tác giả của quyển sách đã kết thúc quyển sách như vậy.
Ông ta nói rằng khi Thủy Tiên chết, những nữ thần của rừng xanh đã xuất hiện và thấy rằng hồ vốn là chứa nước ngọt đã biến thành hồ nước mặn.
“Tại sao hồ nước khóc?” những nữ thần hỏi.
“Tôi khóc cho Thủy Tiên,” hồ nước trả lời.
“À, chẳng có gì ngạc nhiên khi hồ nước khóc cho Thủy Tiên,” họ nói, “vì mặc dù chúng tôi luôn luôn đeo đuổi chàng ta trong rừng thẩm, hồ nướcmột mình có thể có thể trầm tư về vẻ đẹp của anh ta gần bên bên tay.”
“Nhưng …Thủy Tiên có xinh đẹp không?” hồ nước hỏi.
“Ai có thể hơn hồ nước để biết việc này? Những nữ thần nói trong sự ngạc nhiên. “Xét cho cùng, mỗi ngày, bên cạnh bờ của hồ nước mà chàng trai trẻ quỳ xuống để suy tư về anh ta!”
Hồ nước im lặng một chốc. Sau cùng nó nói:
“Tôi khóc cho Thủy Tiên , nhưng chưa bao giờ tôi để ý rằng Thủy Tiên xinh đẹp. Tôi khóc bởi vì, mỗi lần chàng ta quỳ xuống bên cạnh bờ của tôi, tôi có thể thấy, sâu trong đôi mắt ấy, phản chiếu vẻ đẹp của chính tôi.”
“Một câu chuyện tình thật tuyệt “, nhà giả kim nghĩ như thế.
Clifford E. Lander chuyển dịch
****
Chàng trai tên là Santiago. Bụi rơi lả chả khi chàng trai cùng đàn cừu tiến vào một ngôi nhà thờ bỏ hoang. Mái nhà đã rơi rớt từ lâu, một cây sung dâu to lớn đã mọc nơi mà tượng thánh từng ngự chốn ấy.
Chàng ta quyết định dừng chân nơi đây một đêm. Chàng trai đã nhìn để chắc là cả đàn cừu đã đi vào qua cánh cổng đổ nát, rồi thì dựng một vài thanh gỗ chắn ngang để phòng ngừa những con cừu chạy lạc trong đêm. Không có những con cáo ở trong vùng này, nhưng đã một lần có những con cừu lạc mất trong đêm, và chàng trai ta phải mất cả ngày hôm sau để tìm chúng.
Chàng trai đã quét sàn bằng chiếc áo khoác của mình và nằm xuống, dùng quyển sách mà cậu ta vừa đọc xong để gối đầu. Chàng đã tự nói với chính mình rằng chàng sẽ bắt đầu đọc những quyển sách dày hơn: chúng sẽ lâu hết hơn và sẽ là những chiếc gối thoải mái hơn.
Trời vẫn còn tối khi chàng thức dậy, và nhìn lên, chàng có thể thấy những vì sao xuyên qua nữa mái nhà thờ đổ nát.
Chàng muốn ngủ thêm một tí nữa, chàng trai nghĩ như thế. Chàng đã có một giấc mơ giống như một tuần trước đây, và một lần nữa chàng đã thức dậy khi giấc mơ chưa chấm dứt.
Chàng trai ngồi dậy, và cầm lấy cây gậy chăn cừu, bắt đầu đánh thức đàn cừu vẫn còn yên giấc. Chàng trai chú ý rằng, chẳng bao lâu khi chàng tỉnh giấc , hầu hết đàn cừu cũng bắt đầu cựa quậy thức dậy. Hình như có một năng lực huyền bí hòa quyện cuộc sống của chàng với đàn cừu, người đã chăn dắt chúng hai năm qua, hướng dẫn chúng qua những vùng thôn dã để tìm thức ăn và nước uống. "Chúng đã quá quen và quá biết thời khắc của mình", chàng lẩm bẩm như thế. Nghĩ về điều ấy một lúc, chàng nhận thấy rằng có thể có một cách khác: là chàng đã quá quen thuộc với thời khắc của chúng.
Nhưng cũng có những con nào đấy cần một thời gian dài hơn để thức dậy. Chàng phải thúc từng con một với cây gậy chăn cừu, gọi tên mỗi con. Chàng luôn luôn tin rằng mỗi con cừu có thể hiểu những gì chàng nói. Vì vậy có những lần chàng đọc cho chúng nghe những phần trong những cuốn sách đã gây ấn tượng với chàng, hay khi chàng nói với chúng về sự cô đơn hay hạnh phúc của một người chăn cừu trên những cánh đồng. Thỉnh thoảng chàng có thể bình phẩm với chúng về những sự việc chàng đã thấy ở những thôn xóm mà chúng đã qua.
Nhưng vài ngày vừa qua, chàng đã chỉ nói với chúng một duy nhất một điều: cô thiếu nữ, con gái của người thương gia sống trên làng mà chúng sẽ đến trong khoảng ba, bốn ngày tới. Chàng chỉ đến làng ấy một lần vào năm trước. Người thương gia chủ của một gian hàng đồ khô, và ông ta luôn luôn yêu cầu, những con cừu phải được cắt lông trước mắt ông ta, để ông ta không bị gian dối. Một người bạn đã nói với chàng về cửa hàng ấy, và chàng trai đã đưa đàn cừu đến đấy.
"Tôi muốn bán một ít lông cừu", chàng trai nói với người thương gia.
Cửa hàng rất bận rộn, và ông chủ yêu cầu người chẳn cừu phải đợi đến chiều. Vì vậy chàng ngồi trên bậc thang của cửa hàng và lấy quyển sách từ trong túi xách ra đọc.
"Tôi không biết, những người chăn cừu có thể đọc sách". một giọng thiếu nữ vang lên phía sau lưng chàng trai.
Cô gái thuộc loại đặc biệt của vùng Andalusia, Tây Ban Nha, với mớ tóc đen bay bồng bềnh, và đôi mắt mơ huyền gợi nhớ lại những kẻ chinh phục Ma-rốc.
"Ô, thường thì tôi học nhiều ở những con cừu của tôi hơn là từ những quyển sách", cậu ta trả lời. Suốt hai tiếng đồng hồ họ nói chuyện với nhau, cô ta nói rằng cô ta là con gái người thương gia, và nói chuyện về đời sống trong làng, nơi mà ngày này cũng giống như những ngày khác. Người chăn cừu kể cho cô ta nghe về vùng thôn dã của Andalusia, và liên hệ với những mẫu chuyện về những thị trấn khác nhau mà chàng đã từng qua. Thật là một thay đổi thích thú từ nói chuyện với những con cừu đến nói chuyện với một cô gái.
"Làm thế nào cậu học đọc?" cô gái hỏi.
"Cũng giống như mọi người," chàng trai nói. "Ở trường".
"Ồ, nếu cậu biết đọc, tại sao cậu chỉ là một người chăn cừu.
Chàng trai lẩm bẩm một câu trả lời cho phép chàng lẫn tránh đáp lại câu hỏi của cô gái. Chàng trai chắc rằng cô bé sẽ không bao giờ hiểu được. Chàng trai lãng sang kể những câu chuyện về những cuộc hành trình của chàng, và sự rạng rở của cô gái, đôi mắt Ma-rốc mở rộng với sợ hãi và kinh ngạc. Thời gian trôi qua, chàng trai tự thấy mình ao ước rằng , ngày này đừng bao giờ chấm dứt, và ba cô gái sẽ mãi bận rộn để chàng có thể chờ đợi trong ba ngày. Chàng nhận ra rằng, chàng cảm thấy những điều gì mà chàng chưa từng kinh nghiệm trước đây: khát vọng một nơi dừng chân vĩnh viễn cho cuộc sống. Với cô bé với mái tóc đen tuyền, những ngày tháng của chàng sẽ không bao giờ giống như trước nữa.
Nhưng cuối cùng người thương gia xuất hiện, ông ta bảo chàng trai cắt lông những con cừu. Ông ta trả tiền mớ lông cừu và bảo chàng trai chăn cừu sẽ trở lại năm tới.
°°°
Và giờ đây chỉ còn ba bốn ngày nữa là chàng sẽ trở lại làng mình. Chàng trai thích chí, nhưng cùng lúc cũng không thấy thoải mái: có thể cô bé đã quên chàng. Hàng khối người chăn cừu đã đến cửa hàng để bán lông cừu.
"Chẳng hề gì", chàng trai nói với đàn cừu. "Mình biết những cô gái khác ở những nơi khác".
Nhưng trong con tim, chàng trai biết rằng có vấn đề. Và chàng ta biết rằng những người chăn cừu giống như những thủy thủ và giống như những người du hành, hay thương gia đường trường, luôn luôn tìm thấy một thị trấn nơi có những người làm cho họ quên đi những thích thú, vô tư lự dong ruỗi với cuộc đời.
Hoàng hôn đang buông xuống, và chàng trai hướng đàn cừu về phía mặt trời mọc. Chúng chẳng bao giờ phải đắn đo suy nghĩ quyết định, chàng trai nghĩ. Có thể đấy là tại sao chúng luôn luôn ở gần bên mình.
Chúng duy chỉ quan tâm đến thức ăn và nước uống. Cho đến khi nào chàng trai vẫn có thể tìm thấy những đồng cỏ tốt nhất ở Andalusia, chúng vẫn sẽ là bạn của chàng. Vâng, những ngày của chúng thì luôn luôn giống nhau, với sự dường như không chấm dứt của những giờ khắc giữa bình minh và hoàng hôn; và chúng chẳng bao giờ đọc một quyển sách trong tuổi trẻ của chúng, và không hiểu gì khi chàng kể cho chúng nghe những khung cảnh của phố thị. Chúng chỉ bao gồm có thức ăn và nước uống, và trong trao đổi, chúng thông thường cho những bộ lông của chúng, bầy đàn của chúng và - một lần trong đời - thịt của chúng.
Nếu mình trở thành một hung thần hôm nay, và quyết định giết chúng, từng con một, chúng sẽ trở nên cảnh giác chỉ sau khi hầu hết bầy đàn của chúng bị tàn sát, chàng trai nghĩ như vậy. Chúng tinh tưởng mình, và chúng quên bản năng chính chúng thế nào, bởi vì mình hướng dẫn chúng để nuôi dưỡng.
Chàng trai ngạc nhiên với suy nghĩ của mình. Có thể nhà thờ, với cây dâu sung mọc trong ấy, đã ám ảnh. Nó là nguyên nhân để chàng có một giấc mơ lần thứ hai giống như lần trước, và nó làm chàng cảm thấy giận dỗi đối với đàn cừu trung thành của chàng. Chàng trai uống một ít rượu vang còn lại từ bửa ăn tối đêm trước, và kéo chiếc áo khoác sát với thân thể hơn. Chàng biết rằng một vài giờ nữa với mặt trời ló dạng ở chân mây, hơi ấm trở nên gay gắt hơn, chàng không thể lùa đàn cừu xuyên qua cánh đồng. Nó là thời gian tất cả những người Tây Ban Nha yên giấc suôt mùa hè. Nóng bức cho đến khi trời sẩm tối, và đấy là thời gian chàng phải mang nặng chiếc áo khoác của mình. Nhưng khi nghĩ để phàn nàn sức nặng của nó, chàng nhớ rằng, nhờ chiếc áo khoác, chàng mới có thể chống chọi với cái lạnh của hoàng hôn.
Chúng ta phải chuẩn bị cho sự thay đổi, chàng trai nghĩ, và cảm ơn chiếc áo khoác nặng và ấm.
Chiếc áo khoác có mục tiêu và lợi ích của nó, và chàng trai cũng thế. Mục tiêu trong đời sống là để du hành, và, sau hai năm đi bộ qua vùng Andalusia, chàng đã biết tất cả những phố thị trong vùng. Chàng dự tính trong chuyến viếng thăm này, để giải thích cho cô bé làm thế nào một người chăn cừu có thể dễ dàng học đọc. Đấy là chàng tham dự học ở một trường đạo cho đến khi chàng mười sáu tuổi. Bố mẹ chàng muốn chàng trở thành một tu sĩ, và đấy là nguyên nhân tự hào của một gia đình nông dân bình thường. Họ làm việc vất vả chỉ vì thực phẩm và nước uống, giống như đàn cừu. Chàng đã học tiếng La-tinh, Tây Ban Nha, và triết học. Nhưng từ lúc nhỏ, chàng muốn biết thế giới, và điều này quan trọng đối với chàng trai hơn là biết về Đấng Tạo Hóa -Thượng đế và học về tội lỗi của loài người. Một buổi chiều, trong một lần thăm viếng gia đình, chàng tập trung hết cam đảm nói với bố chàng rằng chàng không muốn trở thành một tu sĩ mà chàng muốn du hành.
“Này con, người từ mọi miền trên khắp thế giới đã đi qua ngôi làng này”, người cha nói. “Họ đến để tìm những thứ mới, nhưng khi họ rời đi họ vẫn căn bản là một người như khi họ đến. Họ leo lên những ngọn núi để thấy những lâu đài, và họ kết luận rằng quá khứ thì tốt đẹp hơn chúng ta bây giờ. Họ có tóc vàng, hay da sạm nắng, nhưng căn bản, họ cũng giống như những người đang sống tại đây.”
“Nhưng con muốn thấy những lâu đài trên thành phố nơi họ sống,” chàng trai giải thích.
“Những người đấy, khi họ thấy đất đai của chúng ta, nói rằng họ muốn sống nơi đây mãi mãi,” cha chàng tiếp tục.
“Ô, con muốn thấy đất đai của họ và xem họ sống thế nào,” chàng trai bé nói.
“Những người đến đây có rất nhiều tiền để chi dụng, vì thế họ có thể dùng để cho những cuộc du hành,” cha chàng nói, “Đối với chúng ta, những người duy nhất có thể du hành là những kẻ chăn cừu.”
“Tốt thôi, thế thì con sẽ là một người chăn cừu!”
Cha chàng không nói gì nữa. Ngày hôm sau, ông ta giao cho người con trai một cái túi nhỏ chứa bên trong là ba đồng tiền vàng cổ Tây Ban Nha.
“Cha nhặt được chúng vào một ngày trên cánh đồng. Cha muốn nó là một phần của tài sản thừa kế của con. Nhưng hãy dùng chúng để mua một đàn cừu cho con. Đưa chúng đến những cánh đồng, và một ngày nào đấy con sẽ học được rằng vùng thôn dã của chúng ta là tuyệt diệu nhất, và những người đàn bà của chúng ta là xinh đẹp nhất.”
Và ông ta cầu nguyện, hổ trợ năng lực cho cậu con trai của ông. Chàng trai có thể thấy cái nhìn chăm chăm của cha chàng một sự khao khát có thể, tự chính ông ta, du hành vào thế giới – một khao khát vẫn đang sống động, mặc dù cha chàng phải chôn vùi nó, trải qua hàng năm trời, gánh nặng của khó khăn vì nước để uống, thực phẩm để ăn, và vẫn cùng một nơi để ngủ trong đời sống của ông ta.