Mariana

Chương 15




Khu chợ của vùng Wexley Basset nằm cách Exbury bốn dặm về phía đông, trên đường Marlborough. Chúng tôi không phải những khách bộ hành duy nhất trên con đường - ba lần chúng tôi bị những chiếc xe bò chở người và hàng hóa đến chợ vượt qua. Đi xa thêm một chút, chúng tôi lại tự mình vượt qua một cậu bé đang dắt một con bò màu nâu hiền lành cùng con bê con mắt ươn ướt. Cám dỗ muốn được trò chuyện với những người ở đây lớn dần sau những tuần cô đơn của tôi, nhưng tôi noi theo gương của Rachel và đi về một mé của con đường, đôi mắt e dè cúi xuống.

Đấy là phần khó khăn nhất, chờ đợi cho những người lạ vượt lên, hoặc rớt lại phía sau, để một lần nữa có thể ngẩng đầu và tận hưởng quang cảnh quanh mình. Tự do như một thứ rượu mới cất nồng nàn và những bông hoa dại được mưa gột rửa mang hương thơm tươi mát đang thổi đi thứ mùi của thất vọng khỏi mũi tôi và trong giây lát, khiến tôi quên đi tình cảnh bấp bênh vô vọng của mình.

Con đường thẳng như đường bay của một mũi tên, thẳng như một con đường La Mã, với những vết lún sâu trơn trượt sau trận mưa hôm qua. Phía bên tay phải là những cánh đồng lúa mì mới trồng và những bãi rào lốm đốm hình dáng của những con cừu; bên tay trái đường là dải đất xanh mướt mát của Wexley Hạ và khu vực săn bắn cuồn cuộn phía xa. Vào thời ông ngoại tôi, Rachel kể, vua Charles I đã thân chinh đến đây săn bắn, thúc ngựa chạy nước kiệu sau những con diều hâu với cận thần và một nửa dân làng hỗn loạn theo sau. Nó làm nên một bức tranh lãng mạn và đầy màu sắc. Vì đang quá bận rộn để dựng lại cảnh tượng ấy trong tâm trí đến mức Rachel phải nói hai lần tôi mới để ý.

“Giờ không còn xa nữa đâu”, cô ấy nói. “Chị có thể nhìn thấy nó khi chúng ta lên đến đỉnh ngọn đồi này.” Và rồi mặt trời khuất bóng sau những đám mây khi chúng tôi trèo lên ngọn đồi, tôi đã có cái nhìn thoáng qua đầu tiên về vùng Wexley Basset.

Những khu chợ trong ký ức của tôi là chợ trong thành phố lớn, những khu chợ ở Luân Đôn, nhồi nhét trên những con đường hẹp hay quảng trường rải sỏi, với những người bán hàng rong khản giọng rao hàng và vây xung quanh tôi là những đoàn người chen lấn không thương tiếc, nhìn đâu cũng thấy người. Quả là một thay đổi thú vị khi nhìn thấy những tấm bạt sọc sáng bay phần phật quanh cây thánh giá dãi dầu mưa nắng, ánh nắng chan hòa chiếu xuống cả khu chợ. Chắc chắn ở đây cũng có những đám đông, nhưng họ là những người nông dân thân thiện, giọng nói rõ ràng và chân chất, với những gương mặt thật thà bị gió và thời tiết hun cho đỏ bừng.

“Chị đang nghĩ gì thế?” Rachel hỏi.

Chỉ có thể mắt mở to, miệng há hốc như một đứa trẻ đang bị mê hoặc, tôi làm cô gái bật ra tiếng cười đáng yêu du dương rồi cô ấy chộp lấy bàn tay tôi len vào đám đông dày đặc. Cả hai cũng bị xô đẩy, nhưng tôi nhận ra mình không hề cảm thấy phiền. Tôi nghe thấy mình bật cười khi những mảnh áp lực cuối cùng trôi xa khỏi người, điều đó khiến tôi sửng sốt. Ngọn gió thổi mái tóc bay bay và ánh mặt trời sưởi ấm gương mặt, đột nhiên tôi có cảm giác mình đang sống, một sức sống tràn trề.

“Tuyệt quá!” Tôi hét to với Rachel, nhưng giọng tôi bị cả biển âm thanh nuốt trọn, nên cô ấy không nghe thấy. Cô ấy dẫn tôi đi xa hơn một chút, rồi quay lại, gương mặt đỏ ửng vì kích động.

“Lại đây, chị phải xem những người diễn kịch này”, cô ấy nói.

Một đám người túm tụm đứng ở một góc chợ và cô ấy kéo tôi về phía họ. Khi tới nơi, Rachel mỉm cười ngọt ngào với một trong số những người đàn ông cao lớn. Anh ta đã tránh sang một bên để chúng tôi đứng trước mặt anh ta, nơi cả hai có thể dễ dàng theo dõi diễn biến phía trước. Có tám diễn viên, mặc những bộ quần áo đồng bóng và kỳ quặc bảy sắc cầu vồng. Một trong số họ, một cậu nhóc khoảng mười bốn tuổi, dùng chất giọng cao vút và trong trẻo của mình cất lời giới thiệu.

“Tôi đã hy vọng họ sẽ có mặt ở đây”, Rachel vui vẻ thì thầm. “Họ thường đến vào ngày họp chợ, để mua vui cho mọi người.”

Lời mở màn đã kết thúc, im lặng bao trùm những người theo dõi. Đó là một vở kịch ngắn, chỉ dài khoảng vài phút, nhưng diễn xuất tuyệt vời.

Một người đàn ông mặc bộ đồ đen tuyền tiến lên phía trước tấm rèn, với chiếc mũ Thanh giáo[1] trên đầu và từ “Nghị sĩ” sơn lên tấm biểu ngữ vắt qua ngực. Anh ta nói một tràng dài về hình ảnh thối nát của nước Anh, với những cụm từ đảo ngược cùng ngữ nghĩa méo mó hài hước chỉ đơn thuần là đang giễu cợt chính bản thân mình - trong vai Oliver Cromwell, và khiến các khán giả cười rộ lên vì sự ngốc nghếch của anh ta. Lần lượt, Oliver Cromwell cùng một người lính về phe nghị viện và một kẻ thuyết giáo dâm đãng, cả ba đồng thanh than vãn và đưa ra những kế hoạch tàn ác nham hiểm khiến đám đông hò reo phản đối và huýt sáo.

[1] Một giáo phái xuất hiện ở Anh thế kỷ XVI và XVII: giáo phái này chủ trương tổ chức các buổi lễ nhà thờ đơn giản hơn, họ tin rằng sự tự chủ và làm việc chăm chỉ mới quan trọng, còn khoái lạc là sai trái và không cần thiết.

Một thiên thần vô hình tiến vào, buồn bã lắng nghe rồi băng qua chỗ “Nghị sĩ” và chạm vào anh ta. Ngay sau đó, bộ quần áo Thanh giáo màu đen bị quăng khỏi người, để lộ ra một Nghị sĩ hoàn toàn mới, mặc đồ trắng lấp lánh ánh vàng. Một diễn viên đại diện cho dân chúng, mặc quần áo đỏ và vung một lưỡi gươm của lửa, gia nhập với Nghị sĩ mới và thần thánh, cả hai thách thức rồi đánh bại những kẻ mang âm mưu ma quỷ. Tiếng hoan hô dậy lên từ đám đông tập hợp xung quanh khi bản sao tương đối giống nhà vua Charles tốt bụng xuất hiện để đòi lại ngai vàng và tiếng ầm ĩ cũng phải sánh vang với ngày diễn ra lễ lên ngôi.

Có rất nhiều tiếng “Hoan hô!”, người ta thi nhau ném tiền lên sân khấu khi các diễn viên hoàn thành màn trình diễn.

“Một vở kịch hay”, tôi nói với Rachel khi chúng tôi quay đi.

“Phải”, cô ấy đồng ý, “nhưng bác của chị sẽ không nghĩ vậy đâu”.

“Sao không?”

Cô ấy nhìn tôi và dường như đang cân nhắc điều gì đó, rồi đột ngột đổi chủ đề.

“Nhìn kìa”, thay vào đó, cô ấy nói, “ở kia có hàng bán cam. Hay chúng ta mua một quả nhé? Tôi vẫn còn tiền này”.

Tôi cũng có tiền - một vài xu dành dụm được cất giấu an toàn trong lớp vải lót trên váy, nhưng tôi để Rachel mua quả cam, sau đó chúng tôi cẩn thận chia đôi, nếm thịt quả ngọt ngào mọng nước và mùi hương ngoại lai từ lớp vỏ[2]. Mùi hương vẫn vương lại trên những ngón tay dù cả hai đã ăn xong từ lâu.

[2] Cam có nguồn gốc ở Đông Nam Á, đến cuối thế ky XV và đầu thế kỷ XVI, người Italia và Bồ Đào Nha mới bắt đầu đưa cây cam vào khu vực Địa Trung Hải để trồng.

“Giờ”, Rachel nói, khi nhớ lại lời dặn dò, “tôi sẽ đi mua một con ngỗng và một miếng thịt bò cho Caroline. Hàng thịt ở ngay đằng kia, bên kia đường”.

Tôi giật lùi, ngập ngừng. “Nếu cô không phiền”, tôi bảo, “tôi muốn đi loanh quanh một chút”.

Sự thật là tôi sợ cái mùi hôi ở những quầy bán thịt và tôi chưa bao giờ chịu đựng được cảnh tượng những con vật bị giết mổ. Rachel dường như không thấy miễn cưỡng bởi sự từ chối của tôi.

“Thế nào cũng được”, cô ấy khẽ nhún vai đề nghị. “Tôi sẽ tìm chị khi mua xong.”

Tôi có chút cảm giác cắn rứt vì tội lỗi. “Cô có cần tôi giúp không? Như xách thịt ấy?”

“Không cần đâu. Đừng tự gây phiền hà cho bản thân như thế”, cô ấy bật cười. “Tôi vẫn thường đi chợ một mình mà. Chị cứ đi đi và nhớ chơi vui nhé. Chị có thể xách bớt đồ giúp tôi trên đường về nhà.”

Không mấy khó khăn để khiến bản thân vui vẻ, khi tôi được vây quanh bởi vô vàn đồ vật lạ kỳ, màu mè và tuyệt diệu: thuốc tăng cường sức khỏe, những thước lụa Pháp và ruy băng Bỉ nhập khẩu, táo và chanh chất cao trên những chiếc xe bò đỗ trên đường rải sỏi, cá khô, những chiếc kèn bằng thiếc, thùng gỗ và nữ trang tinh xảo. Như bị mê hoặc, tôi sà hết từ quầy này sang quầy khác, ngừng lại nơi rìa đám đông để nghe tiếng rao quảng cáo của một người bán hàng hoặc nhìn một người khác dùng chất lỏng gột sạch những vệt dầu mỡ khỏi mảnh vải trắng như đang phù phép.

Tại một trong những quầy hàng đó, một chiếc vòng xinh đẹp níu giữ ánh mắt tôi. Tôi ngừng lại để ngắm nó. Nó là một chiếc vòng xinh xắn được mạ vàng óng ánh, dọc theo chiếc vòng là một bầy chim thiên đường có đôi mắt khảm thủy tinh xanh sáng lấp lánh như những viên đá quý lộng lẫy. Tôi nấn ná trước nó đầy khao khát, dùng những ngón tay vạch theo những hình thù tinh xảo kia. Những đồng tiền của tôi có vẻ đang rất sốt ruột trong nơi ẩn náu, và người bán hàng, như cảm nhận được sự yêu thích của tôi, đã thận trọng đẩy nó lại gần hơn.

“Hàng thực sự chất lượng đấy, thưa cô”, ông ta nói, không quên kèm theo một nụ cười lấy lòng. “Giống như thứ các tiểu thư cao quý thường đeo khi vào cung vua. Chỉ mười siling thôi.”

Những mười siling! Tôi miễn cưỡng rụt tay lại. Chỉ có sáu xu[3] trong túi, tôi không bao giờ có thể hy vọng sẽ trả giá để ông ta hạ thấp xuống mức đó được. Dẫu vậy, nỗi thất vọng mới đó chỉ kéo dài trong chốc lát, bởi khi quay đi khỏi quầy trang sức, ánh mắt tôi đã rơi đúng vào chiếc xe bò của người bán sách náu trong góc tối ở ven khu chợ, và trái tim tôi hân hoan rộn lên. Mới tuyệt vời làm sao, tôi nghĩ, nếu lại được cầm một cuốn sách trong tay, để cảm nhận những trang giấy giòn và nhẵn cùng mùi cay nồng của giấy và lớp da phết dầu.

[3] 1 siling = 12 xu.

Ngôi nhà ở Luân Đôn của tôi đầy những sách. Chúng được ních đầy trong tủ búp phê và mỗi ngăn đều trĩu xuống vì quá nặng, nhưng trong nhà bác tôi chỉ có một cuốn Kinh Thánh của vua James trang nghiêm và nặng nề.

Vì quá hạnh phúc khi thấy nhiều sách như vậy nên tôi hầu như không chú ý đến người bán sách, một người đàn ông gầy gò kiệm lời chỉ dựa vào xe sách, ông ta châm chiếc tẩu thuốc và bao dung nhìn tôi mải mê ngắm bộ sưu tập của mình trong im lặng. Có đến vài cuốn tôi muốn mua, nhưng cuối cùng tôi chọn Những bức tranh thiên nhiên sống động thổi hồn từ cây bút của Margaret Cavendish, Nữ công tước Newcastle lừng danh. Đó không phải một cuốn sách mới - thực sự nó đã được xuất bản khoảng mười năm, được viết trong suốt chuyến lưu vong của bà khỏi nước Cộng hòa - nhưng cha tôi đã đọc nó và hoàn toàn tán đồng với những gì viết trong cuốn sách. Tuyệt hơn hết là nó chỉ có giá bốn xu.

“Một lựa chọn thông minh”, người bán hàng khen ngợi với một nụ cười, “với điều kiện cô đừng để tất cả những tưởng tượng lãng mạn của bà ta chi phối đầu óc mình. Quý bà đó rất lạ thường, xứng đáng được người ta ngưỡng mộ, nhưng tôi không nghĩ bà ta là người nên noi gương”.

Tôi mỉm cười đáp lại. “Tôi sẽ luôn ghi nhớ lời khuyên của ông, thưa ông”, tôi hứa, khá chắc chắn rằng mình sẽ không bao giờ bị cám dỗ để ganh đua với những bộ váy và phong cách sống hoang phí của Nữ công tước Newcastle.

Tôi đưa những đồng xu cho ông ta, nhưng ông ta khẽ lắc đầu, rồi đẩy một đĩa nhỏ đựng chất lỏng về phía tôi. Mùi giấm hăng hắc cuộn lên xộc thẳng vào mũi tôi.

“Cẩn thận trước nạn dịch đáng nguyền rủa”, ông ta giải thích. “Cô có thể không đến từ Luân Đôn, cô bé, nhưng chẳng ai biết được những đồng xu của cô đến từ đâu cả.”

Tôi ném bốn xu vào đĩa giấm bằng những ngón tay run rẩy, chắc chắn ông ta có thể đọc được vẻ tội lỗi trong đôi mắt đang cụp xuống của tôi. Siết chặt món đồ vừa mua, tôi vội vã quay đi và không bước chậm lại cho đến khi lạc vào một đám đông rộn rã vô danh nào đó.

Không thể định hướng được đường đi, tôi thấy mình đi loanh quanh thành những vòng tròn vô định, không thể tìm thấy Rachel hay dãy bán thịt. Sau khi làm một vòng quanh khu chợ tưởng như dài vô tận, tôi ngừng lại trong một chiếc lán để nghỉ một chút và phát hiện mình đang đối mặt với một con ngựa xám khổng lồ trông quen thuộc đến lạ kỳ.

Con thú được buộc vào một chiếc đai sắt trên bức tường, đứng cực kỳ điềm tĩnh, chỉ nhìn chằm chằm xuống tôi với đôi mắt to dịu dàng hơi để lộ một chút tò mò.

“Ôi”, tôi khẽ kêu.

Tôi luôn yêu thích các chú ngựa. Khi còn nhỏ, tôi đã bộc lộ là một cô bé gan dạ, không bao giờ sợ các con vật. Sở thích đó ngày càng trở nên đáng lo ngại khi tôi luôn chạy ra đường để cưng nựng những chú ngựa đánh xe cũng như ngựa dùng để cưỡi la liệt trên các con phố của Luân Đôn. Không hề thấy sợ hãi, tôi bước lại gần hơn đến chỗ con ngựa cao ngất và vươn một bàn tay ra dò hỏi.

“Ôi”, tôi lại thốt lên, “cậu bé xinh đẹp. Ổn rồi mà, tao sẽ không làm mày đau đâu”.

Hai lỗ mũi rộng của nó loe ra, ngửi ngửi mùi của tôi.

“Đây rồi, bé yêu”, tôi tiếp tục nói với cái giọng ngu ngốc người ta vẫn dùng để dỗ những đứa bé và động vật, “Đừng sợ. Tao chỉ muốn chạm vào mày thôi mà. Đây này”

Tôi khum tay trên mũi chú ngựa, vuốt nhẹ. Sau một lát, tôi cảm nhận được sự thả lỏng của nó, nó ấn gương mặt vào bàn tay đang vuốt ve của tôi. Tôi hân hoan bật cười và cúi mình để hôn lên chiếc mũi lùng sục của con ngựa, lướt bàn tay dọc theo chiếc cổ cong cong xinh đẹp của nó.

Giọng một người đàn ông, vang lên ngay sau lưng, đột ngột chen ngang khiến tôi giật bắn người.

“Cô liều mạng thật đấy, tiểu thư”, giọng nói lạnh nhạt vang lên. “Nó là một con quỷ xấu tính và phản ứng của nó thường gian dối lắm.”

“Thật vớ vẩn”, tôi nói. “Nó là một con vật đáng yêu.” Tôi quay đầu lại để nhìn thẳng vào mắt Richard de Mornay.

Thực ra tôi phải ngước lên khá cao mới tới. Lúc đứng, anh ta dường như không nhỏ hơn khi ngồi trên lưng ngựa là mấy, đỉnh đầu của tôi dường như chỉ đến vai anh ta.

Anh ta nhấc chiếc mũ khỏi đầu với một cử chỉ tao nhã và cúi mình thật thấp trước mặt tôi, đôi mắt ánh lên nét cười.

“Chúng ta lại chạm mặt rồi.”

“Chào ngài”, tôi vừa chào vừa gật đầu đáp lại.

Anh ta có một mái tóc tuyệt đẹp, tôi vẩn vơ nghĩ. Khi anh ta đứng và gạt mái tóc ra sau, dưới ánh mặt trời, nó sáng lấp loáng như bộ lông mượt mà của loài hải cẩu, và tôi lấy làm tiếc nuối khi một lần nữa chiếc mũ rộng vành che lấp nó. Nhìn gần thế này, anh ta trông trẻ hơn rất nhiều so với những gì tôi đã nghĩ kể từ lần đầu chạm mặt. Chắc chắn anh ta không thể nhiều hơn tôi mười lăm tuổi, nên không thể quá ba mươi lăm.

“Chúc mừng cô đã chiến thắng được lòng tin của Navarre”, anh ta nói, hất đầu về phía con ngựa.

“Navarre? Đấy là tên nó sao?” Tôi vỗ về chiếc hàm đầy cơ bắp của con vật. “Cái tên thật dễ thương.”

Richard de Mornay nhún vai và băng qua chỗ tôi để nhét một gói hàng vào một trong hai chiếc túi da ngoắc vào yên ngựa.

“Tôi không có khiếu đặt tên. Tôi gọi nó là Navarre vì đó là nơi tôi mua nó. Cô bị lạc Rachel rồi à, hay đơn giản cô phát mệt vì phiên chợ rồi?”

Tôi thận trọng chớp mắt. “Làm sao ngài biết tôi đi với Rachel?”

“Trước đó tôi có thấy hai người. Thật khó mà không để mắt tới hai người đẹp tóc vàng ở một nơi thế này.” Rồi anh ta làm một việc lạ lùng, đó là vươn tay chạm vào cánh tay tôi, ngay phía trên cổ tay. Những ngón tay ấm áp chạm vào lớp vải trơn ở tay áo tôi.

“Cô nên mua chiếc vòng tay, cô biết đấy”, anh ta điềm tĩnh bảo tôi. “Những viên đá sẽ rất tiệp màu với mắt cô.”

Lòng kiêu hãnh đã ngăn tôi thốt lên rằng món đồ nữ trang đó quá đắt. Tôi lui lại một bước nhỏ, bàn tay anh ta thõng xuống, vẻ mặt hờ hững.

“Thay vào đó, tôi đã mua cái này.” Tôi giơ cuốn sách lên cho anh ta xem.

“Thì ra cô có thể đọc.”

“Cha tôi là người sao chép tài liệu. Ông coi nạn mù chữ là một tội lỗi không thể dung thứ.”

“Cô thật may mắn. Tôi không thể hình dung cô sẽ tìm thấy nhiều thứ để đọc trong nhà của bác cô.”

Dù không muốn nhưng tôi đành mỉm cười. “Cực ít.”

“Vậy cô phải đến lâu đài thăm tôi thôi. Tôi có một thư viện khá lớn. Cô luôn được hoan nghênh mượn bất cứ cuốn sách nào cô muốn.” Đôi mắt anh ta thoáng lướt qua tôi và quét về phía khu chợ đằng sau. “Rachel kia kìa.”

Tôi quay lại nhìn, đôi mắt mở to một chút khi phát hiện Rachel đang đi cùng một người đàn ông. Một người đàn ông cao lớn, với đôi vai rộng và bàn tay to khỏe khoắn cùng gương mặt mạnh mẽ vô cùng hấp dẫn. Tôi lại nhìn thấy đôi bờ vai đó và đột nhiên nhớ ra trước kia đã từng nhìn thấy anh ta ở đâu.

“Đó có phải là Evan Gilroy không?” Tôi hỏi.

“Phải.” Richard de Mornay nhìn tôi lạ lùng. “Tôi không nhận ra hai người đã gặp nhau rồi đấy.”

“Không phải. Tôi đã nhìn thấy khi anh ta mang chiếc rương của tôi từ trong làng đến. Rachel nói với tôi tên của anh ta. Anh ta là bạn anh.”

Nó không hẳn là một câu hỏi, nhưng dù sao anh ta vẫn trả lời.

“Phải, chúng tôi là bạn. Rachel nhà cô sẽ được chăm sóc tử tế.”

Vẫn chưa chắc đâu, tôi gượng nghĩ và dõi theo khi Evan Gilroy chuyển vài gói hàng cho Rachel cùng lúc cúi người nói chuyện với cô. Dù anh ta có nói gì thì điều đó cũng mang sắc hồng ửng lên trên đôi má nhợt nhạt của cô gái trẻ. Khi anh ta quay người đi thẳng đến chỗ chúng tôi, cô ấy nhìn theo với đôi mắt không buồn che giấu nỗi khao khát bên trong. Cô ấy không hề nhìn thấy tôi đang đứng trong góc tối cạnh con ngựa xám cao lớn, và tôi vô thức thở một hơi nhẹ nhõm.

“Evan”, Richard de Mornay gọi, “đây là cô Farr, mới chuyển đến Đàn Cừu Xám”.

Evan Gilroy nhấc chiếc mũ lên khi đến đứng cạnh chúng tôi. Sự đánh giá thẳng thắn và sắc sảo từ đôi mắt xám của anh ta không hề khó chịu, tôi thoải mái mỉm cười đáp lại.

“Tôi tin ngài đã giúp đỡ tôi, thưa ngài”, tôi bảo với anh ta, “nên tôi nợ ngài một tiếng cảm ơn”.

“Ý cô là việc chuyển chiếc rương hộ cô phải không? Cam đoan với cô, không to tát gì đâu. Richard mới là người cô nên cảm ơn, bởi chính cậu ta đã yêu cầu tôi…”

“Chúng ta phải đi rồi” Richard de Mornay cắt ngang, đầu tiên ném một ánh nhìn tăm tối về phía Evan Gilroy, sau đó là nụ cười chân thật. “Cậu nên tìm ngựa của mình đi, anh bạn.”

“Nó ở con hẻm bên cạnh”, người đàn ông to lớn nói, gật đầu chào tôi thêm lần nữa trước khi bước đi. “Hân hạnh của tôi, thưa cô.”

Richard de Mornay nhảy lên yên ngựa và siết dây cương, khiến đôi bốt sáng bóng ngoắc vào bàn đạp chỉ cách mặt tôi vài centimet.

“Cô nhớ”, anh ta nói, “đến thăm thư viện của tôi đấy nhé”.

Tôi nghển cổ lên nhìn anh ta. “Tôi xin lỗi”, tôi nói, “nhưng tôi không thể”.

“Tôi có thể hỏi lý do không?”

“Bác tôi”, tôi nói thẳng, “đã cấm tôi nói chuyện với ngài”.

Anh ta nhìn chằm chằm xuống tôi một lúc lâu, đôi mắt nheo lại nghiền ngẫm.

“Thật lạ lùng”, anh ta chậm rãi nói. “Tôi không nghĩ cô là một người nhát gan.”

Trước khi tôi có cơ hội trả lời, anh ta đã giật dây cương và thúc ngựa đi mất, lần thứ hai bỏ lại tôi bối rối trố mắt nhìn theo như một kẻ ngốc.

“Mariana!” Rachel gọi từ con đường và tôi chầm chậm bước về phía cô ấy.

“Tôi cứ nghĩ chị bị lạc”, cô ấy vừa nói vừa đưa cho tôi một gói thịt bò và đổi chỗ các gói đồ trên tay cho dễ cầm. “Chị có tìm được thứ mình cần không?”

“Tôi đã mua một quyển sách.” Tôi cho cô ấy xem.

Rachel nhướn mày.

“Chị sẽ phải giấu không cho Jabez nhìn thấy”, cô gái thẳng thắn khuyên. “Bác chị không có mấy thiện chí với những người phụ nữ thích đọc sách đâu.”

Tôi bắt đầu nghĩ, dù sở thích có là gì đi chăng nữa thì cũng không tạo nên thiện chí với bác tôi, nhưng tôi chỉ đơn thuần cắn môi và ôm cuốn sách chặt hơn. Chúng tôi bắt đầu hành trình đi bộ dài bốn dặm về nhà trong im lặng, cả hai đều bận rộn với những ý nghĩ của riêng mình. Mỗi bước tôi đi, tảng thịt bò dường như càng trở nên nặng nề và khó cầm hơn. Khi mới đi được nửa dặm, tôi suýt chút nữa đã đánh rơi hết thảy xuống đất.

“Tiếc rằng anh chàng Evan Gilroy không đủ hào hiệp để mang cái mớ khốn khổ này về nhà hộ chúng ta”, tôi rầu rĩ bảo với Rachel, khi vật lộn để giữ chặt đống đồ của mình.

Rachel quay phắt đầu lại, đôi mắt mở to đầy báo động. “Chị đã nhìn thấy chúng tôi?”

Tôi gật đầu, bối rối trước sự xấu hổ của cô ấy. “Anh ta khá điển trai, Rachel à.”

Cô ấy cúi đầu tránh ánh mắt tôi.

“Tôi đính hôn rồi”, cô nói bằng giọng đều đều, “với Elis Webb, quan khâm sai của Exbury”.

Tôi đã nhìn thấy vị quan khâm sai đó, một người đàn ông nghiêm nghị, cứng nhắc với chiếc miệng khắc khổ, khó tính và vẻ mặt luôn tăm tối tương xứng với bộ quần áo ảm đạm của ông ta.

“Ôi, Rachel.” Tôi không thể kiềm chế cảm giác khổ sở của bản thân.

Cô ấy cam chịu nói tiếp. “Ông ta là bạn của bác chị và là một người đàn ông tử tế. Chúng tôi sẽ kết hôn vào cuối hè.”

Tôi im lặng, và sau một lát, cô ấy ngước mắt lên nhìn tôi thêm một lần nữa, vẻ mặt gần như van nài.

“Nên chị thấy đấy”, cô ấy bảo tôi, “sẽ không hay lắm nếu tôi bị người ta bắt gặp đang nói chuyện với Evan Gilroy. Đương nhiên tôi sẽ không bao giờ lại hành động như thế”.

Tôi siết nhẹ bàn tay cô gái và cam đoan. “Tôi không nhìn thấy gì hết”, tôi nói.

Gương mặt căng cứng của Rachel giãn ra thành một nụ cười. Khi nhìn cô ấy, tôi thấy vẻ lấp lánh đã quay trở lại trong đôi mắt màu hoa lưu ly của cô ấy.

“Tôi cũng không làm thế nữa”, đó là lời đáp kín đáo của Rachel.

Chúng tôi không nói gì thêm cho tới khi đến Exbury và ngôi nhà màu xám lẻ loi. Lúc chúng tôi vào nhà, bác Caroline đang cho bé John ăn cạnh lò sưởi trong bếp. Bác trông ủ rũ và mệt mỏi đến khó tin, đôi mắt đỏ ngầu.

“Jabez đến Salisbury một thời gian”, bác đều giọng thông báo cho chúng tôi. “Ông ấy có vài công chuyện ở đó.”

Đây không phải là một tin tức khó chịu. Caroline tuy nhợt nhạt và yếu ớt, nhưng tính khí của bác ấy khá dễ chịu và tôi không thể ngừng nghĩ rằng, chỉ cần thêm chút thời gian, chúng tôi có thể trở nên thân thuộc. Bác cũng không già hơn tôi là mấy, dù trông nhiều tuổi hơn nhiều, mái tóc đã có những dải trắng xóa vì cuộc sống cơ cực.

Tôi mỉm cười, nhưng bác không đáp lại.

“Một người đàn ông vừa đến đây”, bác ấy nói với tôi, không hề có chút hứng thú trong giọng nói. “Một người hầu đến từ tòa trang viên. Anh ta mang đến một gói đồ cho chị. Bảo rằng chị đánh rơi nó trong khu chợ. Nó kia kìa, ngay trên bàn ấy.” Bác chỉ, cẩn thận không quấy rầy đến đứa bé đang bú sữa.

Tôi nhìn theo. Đó là một gói đồ nhỏ và mỏng, buộc bằng sợi màu trên nền giấy gói sáng. Thành thực mà nói, tôi bị sự hiện diện của món đồ làm cho kinh ngạc, nhưng tôi không muốn để Rachel hay chị gái của cô ấy nhìn thấy phản ứng của mình.

“Tuyệt quá”, tôi vui vẻ reo to. “Cháu cứ tưởng đã đánh mất nó. Cảm ơn bác, Caroline.”

Bác tôi nhìn gói đồ với chút tò mò lóe lên trong mắt, liếc sang quyển sách trong bàn tay kia của tôi rồi nhướn một bên mày nhạt màu, nhưng không bình luận gì cả. Điều đó khiến tôi nhẹ nhõm, Rachel cũng vậy. Chẳng mất chốc, ngồi một mình trong căn phòng trên gác, tôi đặt gói đồ lên giường và cẩn thận bóc nó ra, máu chảy rần rật vì hồi hộp. Tôi có thể cảm nhận được hình dạng cứng cáp của món đồ bên trong qua lớp giấy trước khi bóc được một nửa.

Dẫu vậy, không được chuẩn bị trước cho chiếc vòng tay xinh đẹp đang hiển hiện trước mắt, với đàn chim thiên đường mắt xanh trang trí xung quanh, tôi đã làm rớt nó xuống lớp chăn thô ráp và sơ sài.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.