Hỏa Thần

Chương 11




JERUSALEM: NGÀY 23 THÁNG 3

Hai giờ sáng, chiếc điện thoại của Gabriel reo vang. Yaakov gọi.

“Có lẽ chuyến viếng thăm của anh đến Mukata đã bứt dây động rừng rồi”.

“Cậu đang nói gì thế?”

“Tôi đang ở ngay trước cửa nhà anh”.

Điện thoại mất tín hiệu. Gabriel ngồi bật dậy và lẳng lặng thay đồ trong bóng tối.

“Ai thế anh?”. Chiara hỏi giọng ngái ngủ. “Chuyện gì thế?”

“Anh không biết”.

“Anh định đi đâu?”

“Anh không biết”.

Anh cúi xuống hôn lên trán cô. Chiara giơ tay ra khỏi chăn, choàng qua cổ và kéo anh sát lại. “Cẩn thận nhé anh”, nàng thì thầm và hôn lên má anh.

Một lúc sau Gabriel bị đẩy vào chiếc xe Volkswagen Golf không biển số của Yaakov, chiếc xe phóng nhanh về hướng Tây ngang qua Jerusalem. Trong bộ trang phục Do Thái, Yaakov lao hết tốc lực, một tay cầm vô lăng còn tay kia là cốc cà phê và điếu xì gà. Ánh đèn pha của những chiếc xe chạy ngược chiều rọi thẳng vào khuôn mặt lốm đốm vết rỗ của tay tài xế bạt mạng này.

“Người đó là Mahmoud Arwish”. Yaakov nói. “Một trong những viên nội gián quan trọng của chúng ta bên trong chính quyền Palestine. Hắn ta làm việc trong căn cứ Mukata. Thuộc hạ thân cận của A’one”

“Ai chủ động liên lạc?”

“Arwish đã gửi ám hiệu cách đây vài giờ và nói rằng hắn ta muốn nói chuyện”.

“Về chuyện gì?”

“Dĩ nhiên là về Khaled”.

“Hắn ta biết được những gì?”

“Hắn không muốn nói”.

“Tại sao phải là tôi? Tại sao hắn không nói chuyện với người giám sát của mình?”

“Tôi là người giám sát hắn”. Yaakov nói, “nhưng người hắn thật sự muốn gặp là anh”.

Họ tiến đến rìa phía Tây của thành phố New City. Phía bên phải Gabriel, đắm mình trong ánh sáng bàng bạc của vầng trăng mới nhô lên, thành phố nằm trên vùng đất bằng phẳng của Bờ Tây. Dân địa phương gọi nó là “thủ phủ Shabak”. Đây là vùng đất không áp dụng những luật lệ thông thường - nơi mà những thỏa hiệp hòa bình có thể bị bóp méo hoặc phá vỡ bất cứ lúc nào được để đối phó với tổ chức khủng bố Arập. Nó tập hợp những nhân vật như Yaakov, vốn là tay chỉ điểm của cơ quan tình báo Israel và lực lượng bộ binh chịu trách nhiệm chống khủng bố bằng những phương thức bẩn thỉu. Những phần tử Shabak được phép tùy tiện bắt giữ và khám xét, đóng cửa các doanh nghiệp và phá hủy nhà cửa. Họ luôn sống trong tình trạng phập phồng lo sợ, uống quá nhiều cà phê và ít khi chợp mắt. Những người vợ lần lượt rời bỏ họ. Những° tay cung cấp thông tin người Arập sợ và ghét họ. Dù phải chấp nhận những lời tuyên thệ tối cao của tổ chức, Gabriel vẫn cảm thấy mình thật may mắn khi được gia nhập Văn phòng mà không phải là thành viên Shabak.

Phương thức hoạt động của Shabak đôi khi hoàn toàn ngược lại với những luật lệ của nhà nước dân chủ. Các vụ bê bối bị phanh phui đã bôi nhọ danh tiếng của Văn phòng cả trong và ngoài nước. Tồi tệ và đáng xấu hổ nhất là vụ xe buýt số 300. Vào tháng 4 năm 1984, chiếc xe buýt số 300, đang trên đường từ Tel Aviv hướng về phía nam của thành phố Ashkelon, bị bốn tay lính Palestine tấn công. Hai tên bị bắn chết trong cuộc giải cứu con tin của quân đội Israel, hai tên còn sống sót được đưa vào một đồng lúa mì gần đó và không bao giờ thấy quay trở ra. Sau đó, người ta phát hiện rằng những tên cướp đó bị đánh đến chết bởi những nhân viên Shabak thi hành theo mệnh lệnh cấp trên. Hàng loạt vụ bê bối tiếp theo, lần lượt phơi bày những hành động tàn bạo của Shabak: bạo lực, cưỡng bức nhận tội, tối hậu thư và lừa gạt. Những kẻ biện hộ cho Shabak huênh hoang rằng việc thẩm vấn những kẻ khủng bố bị tình nghi không thể tiến hành nhẹ nhàng như mời một tách cà phê được. Bất chấp mọi chuyện tai tiếng, Shabak vẫn không hề thay đổi. Shabak không muốn bắt những kẻ khủng bố sau khi máu đã đổ. Họ muốn ngăn chặn ngay từ đầu, muốn đẩy lùi những âm mưu tấn công, và, nếu có thể, uy hiếp thanh niên Arập để họ rút tay ra khỏi các hoạt động khủng bố.

Yaakov đột ngột thắng gấp để tránh đâm sầm vào chiếc xe tải đang chầm chậm băng qua. Anh tức tối nhá đèn xe và ấn mạnh còi ô tô. Chiếc xe tải di chuyển sang làn đường khác. Khi Yaakov chạy vụt qua chiếc xe đó, Gabriel liếc nhìn, anh thấy hai người Haderim1đang thản nhiên nói chuyện như chưa có chuyện gì xảy ra.

Yaakov ném cái mũ trùm đầu kippah vào lòng Gabriel. Nó khá rộng và lỏng, cùng với những họa tiết màu cam pha màu hổ phách điểm trên nền đen. Gabriel hiểu ý nghĩa của những họa tiết đó.

“Nếu không có nhân viên an ninh Palestine hay tay lính Hamas nào canh gác tại trạm kiểm soát, chúng ta sẽ vượt qua giới tuyến như những người nhập cư”.

“Vậy chúng ta sẽ khai là từ đâu đến?”

“Kiryat Devorah”. Yaakov trả lời. “Một nơi nào đó trong thung lũng Gioócđan mà cậu sẽ chẳng bao giờ đặt chân đến đó”.

Gabriel nhấc chiếc mũ ra. “Tôi e rằng chúng ta sẽ chẳng được lòng dân địa phương đâu”.

“Chỉ cần nói rằng cư dân vùng Kiryat Devorah sẽ nghiêm túc thực hiện những cam kết đối với đất nước của Israel”.

Gabriel trùm chiếc mũ lên và điều chỉnh lại góc mũ. Vừa lái xe, Yaakov vừa tóm tắt cho Gabriel biết cách thức để vượt qua được khu Bờ Tây, và lộ trình đến ngôi làng Arập nơi Arwish đang đợi. Vừa dứt lời, anh với tay ra ghế sau và lấy lên một khẩu tiểu liên Uzi.

“Tôi thích khẩu này hơn“. Gabriel vừa nói vừa nắm khẩu Beretta.

Yaakov cười. “Đây là Bờ Tây, không phải là bờ bên kia. Đừng ngốc nghếch, Gabriel à. Hãy lấy khẩu Uzi”.

Gabriel miễn cưỡng cầm khẩu súng và nạp đạn vào ổ. Yaakov trùm lên đầu chiếc mũkippah giống hệt của Gabriel. Chỉ còn cách sân bay Ben-Gurion vài dặm, anh tách khỏi đường cao tốc và rẽ vào con đường lộ hai chiều về phía đông của Bờ Tây. Hàng rào phân cách lờ mờ hiện ra trước mặt họ và trải dài trong màn đêm.

Tại trạm kiểm soát, một nhân viên Shabak đang đứng giữa một toán quân của lực lượng Israel. Khi Yaakov tiến đến gần, người đàn ông Shabak thì thầm điều gì đó với những tay lính và chiếc Volkswagen được phép đi qua mà không cần kiểm tra. Ra khỏi trạm kiểm soát, Yaakov lao đi vun vút. Gabriel liếc ngang và thấy một cặp đèn pha ô tô. Ánh đèn vụt sáng rồi khuất dần trong màn đêm. Yaakov dường như không chú ý đến điều đó. Tuy nhiên, Gabriel nghi ngờ chiếc xe đi sau là của nhóm điều tra Shabak.

Cột mốc cây số cho biết chỉ còn cách Ramallah 4 km. Rời khỏi con đường lộ, Yaakov rẽ vào một con đường mòn bẩn thỉu, men theo lớp đất đá của thung lũng đã tồn tại rất lâu. Anh tắt luôn đèn pha và len lỏi qua thung lũng chỉ với ánh sáng màu hổ phách của đèn phanh. Được một lúc, anh dừng xe lại.

“Cậu mở hộ tôi hộp găng tay”.

Gabriel làm theo. Bên trong là hai cái khăn trùm đầu của người Arập.

“Anh đang đùa à?”

“Hãy trùm vào đi”. Yaakov nói “Đó là cách bọn chúng làm”

Yaakov thuần thục trùm chiếc khăn lên đầu và buộc chặt dưới cổ. Cả khuôn mặt anh bị che kín chỉ chừa khe hở nhỏ cho đôi mắt. Gabriel cũng làm như vậy. Yaakov bắt đầu lái xe, hai tay nắm chặt vô lăng lao đi dọc theo thung lũng tối đen, Gabriel miễn cưỡng ngồi bên cạnh như gã chiến binh Arập trong cuộc hành trình liều chết. Chạy thêm được một dặm, họ gặp một con đường trải nhựa hẹp. Yaakov rẽ vào đó và đi về hướng bắc.

Ngôi làng khá nhỏ, kể cả nếu chỉ xét trên môi tương quan với diện tích khiêm tốn của Bờ Tây. Một hoang cảnh tiêu điều hiện ra, những ngôi nhà nâu xám nép mình quanh đỉnh tháp hẹp, ánh sáng leo lét cháy ở một nơi nào đó không thể xác định được vị trí. Giữa làng là một khu chợ nhỏ. Không một chiếc xe cũng như bóng dáng vị khách bộ hành nào lai vãng, chỉ có đàn dê đang chầm chậm tiến đến bầy con mới sinh.

Yaakov dừng xe trước một ngôi nhà nằm về phía bắc của Bờ Tây. Cửa sổ hướng ra đường được lắp cửa chớp lật. Một cánh cửa đung đưa khỏi chiếc bản lề đã gãy. Một chiếc xe đạp trẻ con chỏng chơ gần cửa trước. Chiếc xe quay ra ngoài chứng tỏ cuộc họp vẫn chưa kết thúc. Nếu nó quay theo chiều ngược lại, có lẽ cuộc họp đã buộc phải tạm ngưng và chuyển đến một nơi khác.

Yaakov chộp lấy khẩu Uzi dưới sàn và trèo ra khỏi xe. Gabriel bước theo sau. Làm theo sự chỉ dẫn của Yaakov, anh đẩy cánh cửa dành cho khu vực khách mời. Rồi anh xoay lưng lại để quan sát động tĩnh xung quanh. “Nếu bất cứ ai đến gần chiếc xe trong khi tôi đang ở bên trong, cứ chĩa súng vào bọn chúng”. Yaakov nói. “Nếu chúng vẫn ngoan cố, hãy lập tức hạ bọn chúng”.

Yaakov bước qua chiếc xe đạp và đá chân phải vào cánh cửa. Gabriel nghe thấy tiếng vỡ răng rắc của cánh cửa gỗ trong khi mắt anh vẫn hướng ra đường. Từ bên trong vọng ra tiếng la hét Arập. Gabriel nhận ra đó là của Yaakov. Giọng nói tiếp theo hoàn toàn xa lạ.

Ánh đèn sáng lên trong một ngôi nhà gần đó, rồi lan dần đến các ngôi nhà tiếp theo. Gabriel trông cậy hết vào khẩu Uzi, ngón tay đặt hờ nơi cò súng. Nghe tiếng bước chân phía sau, anh quay phắt lại. Yaakov dẫn Arwish đi qua cánh cửa gãy, hai tay giơ cao, mặt bị che kín bằng mũ trùm đầu màu đen và một khẩu Uzi ấn phía sau đầu hắn.

Gabriel tiếp tục quan sát con đường. Một người đàn ông trong trang phục gabalia màu xám xịt bước ra từ túp lều tranh gần đó. Hắn la thất thanh bằng tiếng Arập khi vừa trông thấy Gabriel. Cũng bằng tiếng Arập, Gabriel ra lệnh ông ta quay ngược vào trong, nhưng gã Palestine này đã nhanh chân tiến đến gần. “Bắn hắn đi”, Yaakov quát, nhưng Gabriel vẫn điềm tĩnh giữ cò súng.

Yaakov ấn Arwish chúi vào băng ghế sau. Gabriel trườn theo và đè hắn xuống sàn. Yaakov chạy ngược lên cửa buồng lái, dừng lại một lúc lâu, đủ để nã một loạt đạn cảnh cáo, không xa nơi gã Palestine vừa chạy ra. Hắn ta đã chạy bán sống bán chết trở lại ngôi nhà.

Yaakov nhảy vào phía sau vô lăng, rồi quay xe về phía con đường hẹp. Đi đến khu chợ, anh quẹo cua và lao ra khỏi ngôi làng. Tiếng súng nổ cùng tiếng xe gầm rú đã gây náo loạn cả ngôi làng. Nhiều khuôn mặt thập thò sau các ô cửa sổ, nhưng chẳng ai dám ra thách thức họ.

Gabriel vẫn trông chừng phía sau cho đến khi ngôi làng khuất hẳn trong màn đêm. Một lát sau, Yaakov lại phóng xe dọc theo thung lũng bùn lầy, lần này theo hướng ngược lại. Kẻ hai mang vẫn đang bị ghì chặt dưới sàn, bó mình trong không gian chật hẹp giữa hai băng ghế.

“Khỉ thật, cho tao ngồi dậy”.

Gabriel ấn khủy tay vào cổ tên Arập và thận trọng lục xét khắp người hắn tìm vũ khí hoặc chất nổ. Không tìm thấy gì, anh kéo tay Arập lên ghế ngồi và giựt phăng tấm khăn trùm đầu. Một con mắt hiểm độc xoáy thẳng vào anh - con mắt của Colenel Kemel, tay phiên dịch của A’one.

Thành phố của người Hadera (người Do Thái chính gốc) nằm lưng chừng dãy đồng bằng duyên hải giữa Haifa và Tel Alviv. Khu canh tác, định cư của người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái trước đây giờ đã biến thành thị trấn công nghiệp ô nhiễm của người Israel. Có một dãy nhà căn hộ chung cư màu vàng nhạt nằm trong khu vực dân cư lao động của thành phố, giáp với một nhà máy sản xuất bánh xe. Căn hộ nằm gần nhà máy nhất luôn chìm ngập trong mùi cao su cháy. Nằm trên tầng cao nhất của khu chung cư này chính là căn cứ an toàn của lực lượng Shabak. Hầu hết các thành viên đều thích chọn nơi này để hội họp. Riêng Yaakov đặc biệt thích nơi này. Anh tin rằng cái mùi khen khét đó sẽ khiến mọi thủ tục được tiến hành khẩn trương hơn, trong trường hợp có những kẻ muốn câu giờ. Tổ tiên của anh, những người Nga gốc Do Thái đến từ Kovno đã góp phần khai phá vùng đất này. Họ đã biến những đầm lầy bỏ hoang thành khu canh tác trù phú. Đối với Yaakov, Hadera là chân lý. Hadera là của người Israel.

Căn phòng không một chút tiện nghi. Phòng khách trống trải với những ghế xếp kim loại và vải lót sàn nhà gồ ghề, xơ xác. Một chiếc ấm điện bằng nhựa rẻ tiền được đặt trên quầy bếp với bốn cái tách cáu bẩn nằm gọn trong cái bồn gỉ sét. Mahmoud Arwish, biệt hiệu Colonel Kemel, từ chối lời mời trà khách sáo của Yaakov. Hắn còn đề nghị Yaakov tắt đèn. Bộ quần áo phẳng phiu mà hắn mặc ban sáng tại Mukata đã được thay bằng một bộ quần vải gabardine và áo cotton trắng, chúng sáng lờ mờ dưới ánh trăng qua cửa sổ. Kẹp giữa hai ngón tay phải của hắn là điếu thuốc Mỹ mà Yaakov mời. Hắn xoa xoa bàn tay trái trên cổ. Con mắt duy nhất của hắn dán chặt vào Gabriel. Không thèm đếm xỉa đến những chiếc ghế xếp, anh ngồi dựa lưng vào tường và vắt chéo chân trước mặt. Yaakov tựa người vào cửa sổ như một cái bóng liêu xiêu.

“Tôi nghĩ anh biết một, hai điều gì đó từ người bạn Shabak”. Vừa nói, Arwish vừa xoa xoa quai hàm. “Bọn họ chỉ giỏi động chân động tay”.

“Anh bảo rằng anh muốn gặp tôi”. Gabriel nói. “Tôi không thích người khác yêu cầu được gặp mình”.

“Anh nghĩ tôi định làm gì? Giết anh ư?”.

“Đó không phải là việc chưa từng xảy ra”. Gabriel bình tĩnh trả lời.

Anh biết rằng các tay mật báo Shabak rất dễ bị tấn công trong các cuộc chạm trán với cái bẫy là các tin tức do phía bên kia chủ động đề xuất. Trong vài năm gần đây, có nhiều kẻ đã bị giết trong các cuộc gặp gỡ như thế này. Có kẻ đã bị chém đến chết bằng một cái rìu trong một căn hộ bí mật ở Jerusalem.

“Nếu muốn giết anh, chúng tôi đã ra tay sáng nay ở Ramallah. Người dân chúng tôi sẽ ăn mừng trước cái chết của anh. Tay anh đã nhuốm đầy máu của những người anh hùng chúng tôi”.

“Chứ không phải mấy ngày nay anh cũng chỉ ăn mừng ‘cái chết’ thôi sao”, Gabriel đáp trả. “Có khi nó còn là điều duy nhất mà các anh có thể làm ấy chứ! Hãy đem lại cho quê hương anh những điều tốt đẹp thay vì các cuộc đánh bom tự sát. Hãy giúp họ thoát ra khỏi những mê muội vì đã trót nghe theo những suy nghĩ cực đoan của xã hội anh. Hãy xây dựng lại để mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn”.

“Chúng tôi đã cố gắng”. Arwish trả lời. “Nhưng anh đã san bằng mọi thứ bằng những chiếc xe tăng và xe ủi đất”.

Gabriel liếc nhìn bóng của Yaakov đang chuyển động trên cửa sổ. Tay Shabak nàysoái đang muốn chuyển sang đề tài ít gây mâu thuẫn hơn. Chỉ cần quan sát thái độ khinh khỉnh châm điếu thuốc thứ hai của Arwish cũng đủ hiểu rằng hắn vẫn chưa sẵn sàng thừa nhận những gì Gabriel nói. Gabriel đưa mắt xung quanh để tránh cái nhìn chòng chọc của hắn và lơ đãng miết những ngón tay trên lớp bụi của tấm vải lót sàn. Hãy cứ để hắn huênh hoang, Shamron đã từng khuyên như thế. Hãy để hắn đổ mọi tội lỗi lên đầu cậu. Điều đó sẽ giúp hắn dịu bớt tội phản quốc.

“Phải, chúng tôi đã ăn mừng cái chết”. Arwish nói và dập cái bật lửa kiểu cũ của Yaakov một tiếng tách. “Có vài người trong chúng tôi hợp tác với kẻ thù. Nhưng điều đó luôn diễn ra trong chiến tranh, đúng không? Phải thừa nhận rằng những người Palestine chúng tôi rất dễ dàng bị mua chuộc. Shabak đã gọi nó bằng 3 chữ K: kesef, kavod, kussit. Tiền, sự tôn trọng và đàn bà. Có ai tưởng tượng rằng ai đó lại phản bội dân tộc vì sự quyến rũ của một ả điếm Israel không?”

Gabriel im lặng, tiếp tục viết nguệch ngoạc trên lớp bụi. Anh nhận ra rằng mình đang phác họa hình ảnh họa sĩ Caravaggio - Abraham, với con dao trong tay, chuẩn bị giết đứa con trai mình để dâng Đấng Chúa trời.

Arwish tiếp tục. “Anh có biết tại sao tôi lại hợp tác với anh không, Jirbil? Tôi phải làm thế bởi vì vợ tôi đang lâm bệnh. Bác sĩ ở Ramallah chuẩn đoán cô ấy bị ung thư và sẽ khó lòng qua khỏi nếu không được chữa trị ở Jerusalem. Tôi phải xin phép chính quyền Israel để vào thành phố. Chuyện này là nguyên nhân dẫn đến việc tôi quyết định gặp gỡ tổ chức Shabak và người bạn thân này”. Hắn nghiêng đầu về phía Yaakov đang ngồi chễm chệ trên thành cửa sổ, hai tay khoanh lại. “Trước mặt tôi, anh ấy tự nhận mình là một Solomon1. Tôi biết tên thật của anh là Yaakov, nhưng tôi vẫn xem anh như là Solomon. Dù sao cũng chỉ là một trong nhiều trò chơi của chúng tôi thôi”.

Arwish tận hưởng mẩu thuốc lá còn sót lại. “Không cần phải nói, cái giá phải trả cho việc vợ tôi được phép đến Jerusalem chữa bệnh là quá đắt, đó là sự phản bội của tôi với đất nước mình. Solomon đã bỏ tù con trai tôi hết lần này đến lần khác chỉ để tôi phải liên tục cung cấp thông tin cho anh ta. Thậm chí anh ta còn bỏ tù cả người họ hàng của tôi đang sống ở phía bên Israel của Giới Tuyến Xanh. Nhưng khi Solomon thật sự muốn gây sức ép với tôi, anh ta đe dọa sẽ kể hết mọi chuyện cho vợ tôi. Solomon biết rằng cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi vì những tội lỗi này”.

Gabriel ngước mặt lên khỏi hình ảnh họa sĩ Caravaggio mình vừa vẽ trên lớp bụi. “Anh nói xong chưa?”.

“Xong rồi, tôi nghĩ thế”.

“Vậy tại sao anh không nói cho tôi biết về Khaled?”

“Khaled”. Arwish lặp lại, lắc lắc đầu. “Khaled chỉ là vấn đề cỏn con của anh thôi mà”. Hắn ta dừng lại và ngước nhìn trần nhà tối đen. “Israel đang bị bỏ rơi. Giờ đây cả dân tộc Israel trở thành thừa thãi trong cộng đồng thế giới, như một con thú hoang cô độc”. Hắn ta nhìn trừng trừng Gabriel lần nữa. “Anh có biết tác giả của những lời sấm đó không?”

“Hosea”. Gabriel lạnh lùng đáp lại.

“Chính xác“. Arwish nói. “Anh có phải là người sùng đạo không?”

“Không”. Gabirel thành thật trả lời.

“Tôi cũng không”. Arwish thú nhận “Nhưng có lẽ anh nên chú ý đến lời khuyên của Hosea. Lối thoát cho Israel trong cuộc chiến với Palestine là gì? Đó là xây dựng hàng rào phân cách. Người Do Thái đã kêu gào suốt hàng thập kỷ qua khi họ phải sống chen chúc trong các khu tập trung. Thế nhưng các anh đang làm gì với cái hàng rào phân cách đó? Chính các anh đã dựng nên khu tập trung người Palestine đầu tiên. Tệ hơn nữa là anh đang xây dựng một cái chuồng cho chính mình”.

Arwish bắt đầu đưa điếu thuốc lên môi, nhưng Yaakov đã nhanh chóng lao tới và giựt phăng điếu thuốc khỏi bàn tay tàn phế của hắn. Arwish cười khinh khỉnh đáp lại, rồi hắn xoay dọc xoay ngang và xin Yaakov một tách trà. Yaakov quay lại cửa sổ, ngồi yên lặng lẽ.

“Không có trà cũng được”. Arwish nói. “Miễn sao có tiền. Để nhận được tiền, tôi phải ký nhận với Solomon và chỉ điểm vào đó. Như thế, nếu phản bội Solomon, tôi sẽ bị trừng phạt. Nhưng tôi cũng biết rằng chỉ có một số phận cho những kẻ cộng tác với địch. Đó là cái chết. Và chắc chắn đó không phải là một cái chết êm ái. Một cái chết như trong Kinh thánh. Tôi sẽ bị ném đá và phanh thây thành từng mảnh bởi những kẻ giết người cuồng tín của A’one. Đó là những đe doạ mà Yaakov đưa ra để đảm bảo rằng tôi sẽ chỉ cung cấp cho anh những thông tin chính xác và kịp thời”.

Yaakov nghiêng về phía trước và thì thầm vào tai Arwish, giống như một luật sư đang hướng dẫn cho nhân chứng trả lời những câu hỏi hóc búa.

“Solomon khó chịu với bài diễn văn dài dòng này của tôi. Solomon muốn tôi vào thẳng vấn đề”. Arwish quan sát Gabriel một lúc. “Nhưng anh thì không phải vậy, Jibril. Anh là một người kiên nhẫn”.

Gabriel ngước lên. “Khaled ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng sáng nay A’one đã nói dối anh. Anh đã đúng. Khaled có tồn tại và đang nối tiếp sự nghiệp sát thủ của ông và cha mình”

“Có phải hắn đánh bom ở Rome?”

Một thoáng do dự, Arwish liếc về phía cái bóng đen của Yaakov rồi từ từ gật đầu.

“Có phải hắn hành động theo chỉ thị của A’one không?”

“Tôi không dám khẳng định điều này”.

“Vậy anh khẳng định được điều gì?”

“Anh ta đang liên hệ với Mukata”.

“Bằng cách nào?”

“Nhiều cách. Thỉnh thoảng bằng fax. Các bản fax được gửi từ nhiều số máy khác nhau. Và khi bản fax đến nơi, không ai có thể đọc được nội dung của nó”.

“Còn gì nữa?”

“Đôi khi anh ta sử dụng địa chỉ thư điện tử đã được mã hoá, nó được truyền đi từ nhiều địa chỉ và máy chủ khác nhau. Thỉnh thoảng hắn gửi tin cho A’one thông qua người đưa thư hoặc những phái đoàn viếng thăm. Mặc dù vậy, hầu hết hắn chỉ sử dụng điện thoại”.

“Anh có thể nhận ra giọng hắn chứ?”

“Tôi không chắc là tôi đã từng nghe thấy giọng hắn”.

“Anh đã bao giờ nhìn thấy hắn chưa?”

“Tôi tin rằng tôi đã gặp hắn một lần từ nhiều năm trước ở Tunis. Một người đàn ông trẻ đến thăm và ở lại nhà của A’one vài ngày. Hắn ta có hộ chiếu và tên Pháp nhưng hắn ta nói tiếng Arập như người Palestine”.

“Điều gì khiến anh nghĩ đó là Khaled?”

“Cái cách mà A’one tiếp đón. Mặt ông ta sáng bừng lên khi người đàn ông trẻ tuổi này xuất hiện”.

“Tất cả chỉ có thế thôi à?”

“Không, còn về diện mạo của anh ta nữa. Mọi người bảo rằng Khaled trong rất giống ông nội của mình. Chàng thanh niên này giống Sheikh Asad đến kinh ngạc”.

Arwish đột ngột đứng lên. Yaakov giơ tay lên và dí thẳng khẩu Uzi vào đầu tên Arập. Arwish mỉm cười và kéo áo sơ mi ra khỏi quần. Buộc ở phía dưới thắt lưng là một lá thư. Gabriel đã không phát hiện ra trong lúc tìm kiếm vũ khí của hắn ở phía sau xe hơi. Arwish lấy thư ra và đưa nó cho Gabriel. Anh đang rất tò mò và vô cùng sửng sốt với bức ảnh vừa rơi ra vào lòng anh. Đó là một chàng trai trẻ hết sức điển trai đang ngồi bên cạnh A’one. Anh ta dường như không nhận ra rằng mình đã bị chụp trộm.

“A’one có thói quen bí mật chụp lại bất cứ ai mà ông ta gặp” Arwish nói. “Anh có bức ảnh của Khaled thời còn nhỏ. Có lẽ máy tính sẽ giúp anh xác nhận người này chính là Khaled”.

“Không giống lắm”. Gabriel nói “Anh có thông tin nào khác không?”.

“Khi anh gọi đến Mukata, giọng trong điện thoại không phải là của hắn”.

“Hắn ta làm thế bằng cách nào?”.

“Hắn ta để một người khác nói chuyện. Là một phụ nữ - một phụ nữ châu Âu”.

“Tên cô ta là gì?”

“Cô ta sử dụng nhiều tên khác nhau và nhiều số điện thoại khác nhau”

“Ở đâu?”

Arwish nhún vai.

“Giọng bản xứ của cô ta là gì?”

“Khó nói lắm, nhưng tiếng Arập của cô ta cũng rất tốt”.

“Ngữ âm thế nào?”

“Cổ điển. Người Gioócđan thượng lưu. Có lẽ ở Beirut hoặc Ai Cập. Cô ta gọi Khaled là Tony”.

“Ai là Tony?”. Gabriel bình tĩnh hỏi “Tony ở đâu?”

“Tôi không biết”. Arwish nói, “nhưng tìm được người phụ nữ, có lẽ anh sẽ tìm được Khaled”.

Chú thích

________________________________________

. Solomon: một vị vua huyền thoại của Israel nổi tiếng thống soái

. Haderim: người Do Thái chính thống


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.