Tôi thật sự không thể tưởng tượng được làm sao mình có thể vượt qua ba ngày tiếp theo dưới sự “hành hạ” của nữ ma đầu Lê Thiền. Sợ hãi làm tôi trở nên biến dạng.
Lớp cao cấp khác hoàn toàn với lớp sơ cấp, nơi mỗi tuần chỉ có hai buổi học, vì Lê Thiền chỉ ở Hòa Quang tổng cộng có năm ngày, nên chúng tôi phải dồn cả khóa học kéo dài hơn một tháng vào trong ba ngày. Đúng như Diệp Thanh Hữu từng nói với tôi: “Em muốn học trà, công phu nằm ngoài trà”; khóa cao cấp không chỉ dạy về nghệ thuật pha trà, mà còn bao gồm các kiến thức liên quan mật thiết đến trà như hương nghệ, hoa nghệ, trà cụ, văn hóa trà của các dân tộc và cách bố trí bàn trà.
Môn học đầu tiên chúng tôi tham gia là văn hóa trà của các dân tộc. Lê Thiền cầm quyển sổ ghi chép đọc vài trang một cách khô khan rồi hết sức phấn khởi ném quyển sổ đi: “Xong rồi!”
Tôi: …???
Không phải chứ, ít ra chị cũng là một kỹ sư rồi, dạy học có thể đừng qua loa như vậy được không? Tôi yếu ớt hỏi liệu chị có thể giảng chi tiết hơn chút không, chị tỏ vẻ vô cùng thiếu kiên nhẫn, phẩy tay: “Ôi trời, nói mấy thứ lặt vặt đó làm gì, chẳng thú vị chút nào. Chúng ta ra ngoài chơi đi!”
Tôi: …
Tôi nghi ngờ mình đang học một khóa trà giả.
Lê Thiền dẫn đầu chạy ra sân nhỏ của Hòa Quang. Vì chị chỉ về đây mỗi năm một lần, lớp cao cấp cũng chỉ mở một khóa mỗi năm nên không chỉ có mình tôi tham gia – tất cả các nghệ nhân trà đã học xong khóa trung cấp trong năm đều quay về để tiếp tục học nâng cao. Sân trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết, chưa từng có cảnh tượng đông đúc đến vậy. Khu vực trà đài ngoài trời ban đầu đã được dọn trống, để lại một khoảng không, trên đó đặt một giá nướng ba chân và một cái bình đất nung. Lê Thiền kiêu hãnh chỉ đạo chúng tôi làm việc, người chuẩn bị trà, người lo gừng tỏi và mứt, ai nấy đều có nhiệm vụ riêng nhưng mọi thứ diễn ra vô cùng suôn sẻ.
Nhìn những thứ chị chuẩn bị, tôi hiểu ngay, chị ấy muốn cho chúng tôi trải nghiệm trực tiếp Ba chén trà của người Bạch mà chị vừa giảng trên lớp.
Buổi sáng vừa mới mưa xong, thời tiết có chút ẩm ướt, rơm rạ cành cây đã chuẩn bị sẵn bị ẩm hết, làm cách nào cũng không nhóm lên được. Khuôn mặt của Lê Thiền bị khói ám đen thui, chỉ còn tròng mắt trắng toát đảo qua đảo lại, nhìn sang tôi rồi chỉ tay: “Em, đi nhặt củi đi!”
Tôi bất đắc dĩ nói: “Dạ vâng.”
May mà trường chúng tôi ở vùng nông thôn, chứ nếu ở thành phố thì lấy đâu ra chỗ cho bọn họ chơi đùa thế này.
Trên cánh đồng quả thật có không ít cành khô, rơm rạ, nhưng cũng ướt đẫm hết cả, chẳng dùng được. Tôi quay trái ba vòng, quay phải ba vòng, cuối cùng cũng lôi ra được một khúc gỗ quế khô dưới bóng cây, rồi đi về phía Hòa Quang. Đi được nửa đường, từ xa tôi đã thấy nhóm người bên Hòa Quang ngồi chụm lại thành vòng tròn, mắt chăm chăm nhìn cái nồi đất đang nướng trên đống lửa.
Đậu, nhân lúc tôi không có ở đó mà họ đã nhóm được lửa rồi, vậy còn bắt tôi đi nhặt củi làm gì!
Tôi quẳng đống củi vào trong sân, rồi ngồi xuống trong trà thất thở dốc. Trong lúc tôi đi nhặt củi, Diệp Thanh Hữu đã từ trên lầu xuống, đang đọc sách. Vừa mới rót được chén nước uống, Lê Thiền đã chạy vào gọi tôi: “Gia Gia Gia Gia, uống nước làm gì? Trà đã xong rồi ra ngoài uống trà đi!”
Chị ấy bưng một chiếc bát sứ nhỏ đưa cho tôi, trong bát trà còn nổi lên vài miếng mứt. Tôi uống một ngụm, ngọt lịm, ngơ ngác hỏi chị ấy: “Không phải là ‘đắng trước ngọt sau, ba lần mới thấm’ ạ, sao ngay lần đầu đã là trà ngọt rồi vậy chị?”
“Vì nãy em ra ngoài lâu quá, mọi người đã uống xong trà đắng rồi, giờ chỗ em chỉ còn bắt đầu từ trà ngọt thôi.” Lê Thiền giơ tay làm động tác “OK hoàn hảo”. “Nhưng không sao! Mỗi người đều phải uống đủ ba loại trà, em uống xong trà ngọt và trà hậu vị rồi chúng ta sẽ pha trà Long Hổ đấu. Đến lúc đó chị sẽ giữ lại cho em riêng một chén trà đắng nữa!”
Tôi: “…”
Chị tổ à, chị định giết em sao?!
Uống xong trà ngọt, Lê Thiền kéo tôi trở lại sân, chưa đầy mười phút sau trà hậu vị cũng đã pha xong. Trà hậu vị được pha từ trà Tuyết Lục Cang Sơn, thêm mật ong, gừng sống, hoa tiêu, quế chi và các loại gia vị khác, uống vào một ngụm có đủ vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn, thực sự là hương vị của cuộc đời. Tôi ngồi xổm bên đống lửa uống trà, Lê Thiền rửa sạch bình nướng trà, đặt lại lên lửa hong khô, vừa hong vừa hỏi tôi: “Gia Gia, em có thấy mình không đáng tin lắm không?”
Tôi suýt bị sặc trà, lắc đầu liên tục: “Không thấy, không thấy.”
“Ha ha ha, thôi đi. Chị đã dạy bao nhiêu học trò rồi, em nghĩ gì chị còn không rõ sao? Từng chữ đều viết hết lên mặt em kìa!” Chị vừa cười ha ha vừa bỏ trà Phổ Nhĩ ủ lâu vào nồi rang. “Haiz, vẫn là mấy người trẻ như em hay thật. Chị vừa ngửi đã thấy trên người em có mùi tươi mát như cỏ non của đàn em mới, nhìn xem Tiểu Thanh Hữu, nhìn xem Trần Tiểu Quân, trên người họ toàn là mùi xưa cũ của những đàn anh lâu năm rồi.”
Tôi ngẩn ra một hồi, lắp bắp hỏi: “Có phải chị nhầm bối phận không? Đàn anh đàn em là vai vế trong trường, còn ở trà thất em là học trò của ông chủ Diệp…”
“Bây giờ chị dạy em mà, vậy em chính là học trò của chị, cũng coi như đàn anh đàn em với em ấy thôi.” Lê Thiền nói đầy nghiêm nghị.
Tôi đáp: “Dạ vâng… vai vế này loạn thật.”
“Chị không câu nệ mấy thứ hình thức đó lắm đâu. Tiểu Thanh Hữu chưa nói với em à? Trà đạo của chị là ‘thủ phá ly’.” Lê Thiền vừa nói vừa hít hà mùi trà trong nồi đã khô đến đâu. “Có lẽ em không tưởng tượng được hồi chị mới học trà thế nào đâu, cứng nhắc, cổ hủ, bướng bỉnh. Khi chị mới học một thứ gì mới, chị sẽ tiếp thu trọn vẹn, đó là ‘thủ’; sau đó chị sẽ bỏ đi những quy tắc, bước ra khỏi khuôn khổ, đó là ‘phá’; cuối cùng chị sẽ dựa trên sự hiểu biết và phán đoán của mình để phát triển ra một cái gì đó hoàn toàn mới, đó là ‘ly’. Đó chính là trà đạo của chị.”
Trong khi nói chị dùng đôi đũa dài khuấy lá trà khô Phổ Nhĩ trong nồi, trông như đang xào nấu vậy. Khi mùi trà thơm nức lên, chị đổ nước sôi vào: “Ôi, nhắc đến chuyện này, chị rất lo cho Tiểu Thanh Hữu…”
Nghe đến tên Diệp Thanh Hữu, tim tôi khẽ giật, lập tức vểnh tai lên chăm chú lắng nghe.
“Trà đạo của Tiểu Thanh Hữu đơn giản, thuần khiết, chuyên tâm, nhưng bản thân em ấy không làm được điều đó.” Lê Thiền đặt ấm nước xuống, ôm đầu gối nói giọng trầm lặng. “Một người trong lòng có oán khí, làm sao có thể bình tĩnh mà đối diện với trà? Miệng thì nói vô sự, nhưng lòng lại chẳng yên. Em ấy cứ thế này sẽ tự làm hại bản thân.”
Tôi: “…”
Lê Thiền hơi nghiêng đầu: “Sao vậy?”
Tôi nói: “Em thấy hai người thật đúng là thầy trò một nhà. Mấy câu như vậy hôm trước anh ấy cũng vừa nói với em.”
“Ha ha ha ha ha ha ha! Em ấy không học được tính thoải mái của chị, lại học luôn cái tính thích dạy dỗ người khác.” Lê Thiền bỗng cười phá lên, tay che miệng mà run rẩy. Cười xong chị mới đứng dậy lấy chén trà, chuẩn bị rót nước trà đã đun trong nồi ra. “Nhưng em phải biết, chị nói là muốn em ấy tốt, em ấy nói cũng là muốn em tốt. Tiểu Thanh Hữu là người ít nói, lời phê bình mà em ấy chịu nói ra chắc chắn không dễ dàng gì.”
Vì chỉ có tôi chưa uống trà đắng, Lê Thiền chỉ rót một chén cho tôi, phần còn lại để cho những người khác pha trà Long Hổ đấu. Chị vừa rót trà vừa làm vẻ mặt nghiêm nghị, bộ dạng trẻ trung nhưng già dặn nói: “Những người trẻ bây giờ, ít trải nghiệm mà nghĩ nhiều quá. Nghĩ nhiều như vậy để làm gì? Sống trên đời tất nhiên phải lấy vui vẻ làm mục tiêu hàng đầu chứ. Mình sống vui cũng làm người khác vui, thế mới vẹn cả đôi đường. Hồi đó chị nhận cả Tiểu Quân và Tiểu Thanh Hữu làm học trò, cũng chỉ hy vọng hai đứa bổ trợ lẫn nhau, ai ngờ lại chẳng có tác dụng gì.”
Chị nói đến đây thì thở dài một tiếng rồi nói tiếp: “Chị nhìn ra được Tiểu Thanh Hữu rất thích em. Những gì Trần Tiểu Quân không làm được, chị hy vọng em có thể làm được.”
Nói rồi, chị đưa chén trà đắng đầy tới trước mặt tôi, vô cùng trịnh trọng nói: “Nào Gia Gia, uống cạn chén Phổ Nhĩ thời Văn Cách năm 72 này, đi cứu lấy đàn anh đã cũ kỹ của em đi!”
Trà đắng. Tượng trưng cho tất cả khổ đau và nghịch cảnh trong cuộc đời.
Phổ Nhĩ ủ lâu, nước sôi sùng sục và thời gian nấu dài đến đáng sợ. Chỉ nghĩ thôi tôi đã thấy, đúng vậy, rất khổ sở.
Tôi cầm chén trà đắng quay về trà thất, cố lén lúc tìm cách đổ bỏ nó, nhưng lương tâm của một nghệ nhân trà lại âm thầm cắn rứt, bảo tôi nên bịt mũi mà uống hết.
Tôi ngậm hơi uống một ngụm, lưỡi tê dại bởi vị đắng, miệng há ra thở hổn hển. Diệp Thanh Hữu ngồi đọc sách sau tấm rèm, nghe thấy tiếng động bèn hỏi dò: “Gia Gia?”
Tôi im lặng, anh lại gọi thêm một tiếng: “Gia Gia, qua đây.”
Tôi bưng chén trà bước vòng qua tấm rèm đi đến trước mặt anh, anh chỉ vào chén trà khác trên bàn: “Khi nãy uống trà ngọt anh để lại nửa chén, vẫn còn ấm. Em uống hết trà đắng rồi thì uống chén trà ngọt này để xua đi vị đắng.”
Nói là nửa chén, thực ra vẫn còn hơn sáu phần. Tôi nhớ lại Diệp Thanh Hữu không thích uống Phổ Nhĩ, vậy nên trà đắng và trà hồi vị hẳn là anh cũng chưa uống. Tôi do dự một chút, nhìn chén trà trong tay: “Nhưng mà…”
“Anh đã nói rồi, nếu em thấy đắng, không uống hết được thì để anh uống.” Diệp Thanh Hữu nói.
Trong đầu tôi bỗng sôi trào, ngay cả bị anh dỗ đổi chén trà lúc nào cũng chẳng hay. Tôi uống chén trà ngọt anh để lại, vị mứt và đường đỏ ngọt lịm, ấm áp lan dần đến dạ dày.
Những lời Lê Thiền từng nói lại vang vọng trong đầu tôi.
“Những gì Trần Quân không làm được, chị hy vọng em sẽ làm được.”
–