Trông Từ Thiếu Khiêm bây giờ không khác gì bình thường.
Ngày thứ hai vào tuần thứ hai sau khi nhận được điện báo, Từ Thiếu Khiêm thông báo với tất cả các thành viên: “Trước khi con thuyền Daant cập bến Hương Cảng, mọi người không được nhúng tay vào công việc ở viện nghiên cứu nữa.” Mà dường như cũng trong khoảnh khắc ấy, thống đốc Hương Cảng cũng nhận được điện báo, lập tức điều hai đội binh đến canh gác viện nghiên cứu, nghiêm khắc kiểm tra vật phẩm và tài liệu mọi người mang theo khi ra vào, tất cả thư từ của viện nghiên cứu gửi ra ngoài đều bị giữ lại.
Trước khi con tàu nước Anh đến Hương Cảng, viện nghiên cứu rơi vào tình trạng hỗn loạn nhất từng có.
“Vì sao không cho bọn tôi gửi thư về nhà?” Tiến sĩ người Đức là Carl và Hoffman không dưới một lần phẫn nộ chất vấn lính Anh, “Các người không có quyền làm thế!”
“Thế thì phải hỏi người của các anh.” Lính Anh cười ha hả, “Có người cho bọn này biết: Bất cứ ai từ chối điều tra thì có thể sẽ bị đưa thẳng đến tòa án quốc tế. Nếu không muốn ngồi ghế điện thì đừng có lộn xộn.”
Dù các thành viên căm phẫn hay khó hiểu thì Từ Thiếu Khiêm vẫn giữ thái độ hòa nhã vạn năm không đổi, mỉm cười khuyên nhủ: “Xin mọi người kiên nhẫn chờ thêm một tuần nữa.”
Nhưng Lương Chương lại không có được tu vi như anh. Người ngoài tra hỏi nhiều lần, anh ta còn có thể mặt đỏ tía tai lùi vào góc tường ngậm chặt miệng. Mãi cho đến Lise khó hiểu hỏi anh: “What are they protect? Protect us, or protect something from us?” (Rốt cuộc bọn họ đang bảo vệ gì thế? Bảo vệ chúng ta hay đang phòng bị chúng ta?)
Lương Chương vò đầu bứt tai, nhưng vẫn giữ kín miệng: “Tôi không biết thật! Đừng hỏi tôi!”
Người Anh ở vùng thuộc địa rất xem thường người da màu. Người Hoa và người Ấn ở Thượng Hải, Hương Cảng hay Singapore đều đã quen rồi, nhưng Carl và Hoffman thân là người da trắng lại chưa bao giờ bị đối xử như vậy, lúc này đang cực kỳ phẫn nộ trước sự ngạo mạn của lính Anh.
Hai tiến sĩ người Đức nhiều lần bày tỏ bất mãn với lính Anh bằng cách vung tay vung chân. Mấy hôm sau, hai gã hạ úy dắt một con chó lưng đen đến, gọi nó là “Prussia”*. Lúc tiến sĩ người Đức đi qua thì cười ha hả nói lớn: “Súc sinh không nghe hiểu tiếng Anh! Nhưng Prussia đừng sợ, người thân của mày đến rồi, chắc chắn là bọn chúng muốn nói mấy lời với mày.”
(*Prussia hay còn gọi là Phổ, là một vương quốc trong lịch sử cận đại nước Đức.)
Trong phòng nghiên cứu, mâu thuẫn giữa người da trắng và người da màu đã bùng nổ. Hoffman không chịu nổi sự giày vò ngày một chồng chất, cuối cùng cầm tài liệu nghiên cứu của mình đập mạnh xuống bàn của Từ Thiếu Khiêm, giận dữ gào lên: “Tôi không làm nữa! Tôi về Đức có được không hả?”
Đối mặt với gấu xám nước Đức đang xù lông, Từ Thiếu Khiêm vẫn bình tĩnh một cách lạ thường: “Kiên nhẫn chờ chút nữa đi.”
Nhìn Hoffman kêu gào trong văn phòng, Chandra an ủi: “Người Anh ở vùng thuộc địa đều vậy cả mà, các anh cũng phải quen rồi chứ.”
Mọi người ngầm thừa nhận Từ Thiếu Khiêm và Lương Chương đã biết chuyện, cũng vì thế mà xếp Sở Vọng vào phạm vi người biết chuyện. Tuy nhiên, xem ra cuộc sống của cô dễ chịu hơn Từ Thiếu Khiêm và Lương Chương nhiều, bởi vì thực chất khi khi mọi chuyện còn chưa bắt đầu thì trong phòng thí nghiệm đã rạn nứt, Sở Vọng cũng âm thầm toát mồ hôi thay.
May mà không lâu sau, con tàu Daant đã đến Hương Cảng.
Trước khi tàu đến, hai toán binh hạ cấp của quân đội Anh đã canh gác quanh viện nghiên cứu. Tất cả mọi người yên lặng chờ trong văn phòng, tim đập thình thịch.
Hoffman ngăn Từ Thiếu Khiêm lại, chỉ vào đám người Anh diễu võ giương oai bên dưới, cáu kỉnh hỏi: “Đình chỉ công tác đã nhiều ngày, lại còn cấm chúng tôi gửi thư, bây giờ thì cấm túc giam lỏng! Bọn tôi là nhà khoa học chứ không phải tù nhân!”
Từ Thiếu Khiêm chỉ cười không đáp, sau đó xoay người đi xuống lầu.
Hoffman như đấm vào bông, ngoái đầu tức giận hét lớn: “Tôi muốn từ chức!”
Thống đốc đích thân dẫn cấp dưới ra bến tàu đón người. Lúc Từ Thiếu Khiêm đi xuống nghênh đón thì Sở Vọng cũng đứng ngồi không yên, sốt ruột chạy ra ban công nhìn xuống.
Có hai chiếc xe chậm rãi chạy vào.
Sở Vọng nhìn chằm chặp chiếc xe đã dừng lại —— thống đốc mỉm cười mở cửa xe, một đôi ủng và quần bò chậm rãi xuất hiện từ ghế sau, một người vóc dáng cao to, đeo kính nhỏ, mặt mày nghiêm nghị nuôi râu dài, ông mặc một chiếc áo dài quá thắt lưng.
Trong khoảnh khắc khi Rutherford râu dài mặc áo khoác dài xuống xe, Sở Vọng như biến thành “fan não tàn”, kích động tới mức chỉ muốn quỳ rạp xuống đất.
Tiếng ồn ào xung quanh cũng dần lặng đi trong khoảnh khắc ông bước xuống xe. Một lúc sau, cô nghe thấy tiếng thán phục và tiếng hét lẫn lộn nhiều ngôn ngữ vang lên ——
“Rutherford? Ernest Rutherford! Ôi trời ơi!”
Còn chưa hồi phục từ kích thích mà Rutherford đem đến, thì ngay tiếp theo, bước xuống xe theo sau Rutherford là một người để ria mép hói đầu cùng một người Do Thái trẻ tuổi.
Lập tức bên tai Sở Vọng lại vang lên tiếng hét ầm ĩ ——
“Có có phải là Wilson trợ lý của Rutherford không?”
Người kia điên cuồng hét lớn: “Đúng! Chính là ông ấy! Thomson Wilson, người phát minh ra buồng sương đã giành giải thưởng Nobel cùng Compton năm ngoái!”
…
Trong bọn họ, chỉ có Sở Vọng thật sự nhìn kỹ người trẻ tuổi Do Thái đứng đằng sau hai người nọ.
—— Đấy có phải là Oppenheimer không?
Là Oppenheimer 24 tuổi rời khỏi Bonn, vừa bước chân ra đời đó sao?
Từ Thiếu Khiêm và Rutherford tiến tới thân mật chuyện trò, còn chàng thanh niên Do Thái lạnh lùng nhìn hai người chăm chú, trong mắt in hằn ghen tị.
Sở Vọng nghĩ bụng: Ồ, đúng là anh ta rồi —— bốn năm trước bị Rutherford từ chối ngoài cửa, ba năm sau Rutherford đi đến đâu anh ta cũng lẽo đẽo đi theo, ngoài Oppenheimer ra thì không còn ai khác nữa.
Rutherford ôm Từ Thiếu Khiêm, hàn huyên vài câu rồi đi thẳng vào chính đề, sóng vai cùng lên lầu. Đám đông đứng trên lầu nhìn nãy giờ nhanh chóng tản đi, quay về bàn làm việc của mình, ngoan ngoãn ngồi yên. Chỉ có Sở Vọng là đang đắm chìm trong sắc đẹp của Oppenheimer, đến khi sực tỉnh tính chuồn đi thì bị Từ Thiếu Khiêm bắt quả tang.
“Lại đây.” Từ Thiếu Khiêm mỉm cười, vẫy tay với cô.
Sở Vọng chạy đến. Đoàn người đi vào văn phòng kín, đóng cửa lại.
Từ Thiếu Khiêm giới thiệu cô với Rutherford, “Giáo sư Rutherford, thầy của tôi; Lâm Trí, học trò của em.”
Sở Vọng khéo léo nịnh nọt: “Chào giáo sư Rutherford, hội trưởng hội Hoàng gia Luân Đôn, em rất sùng bái thầy.”
Sùng bái quá ấy chứ! Mô hình Rutherford của ngài đã đi suốt quãng đời học sinh của tôi đấy!
Rutherford quan sát cô với ánh mắt tán thưởng hậu bối có triển vọng.
Cái nhìn đó suýt làm Sở Vọng ngất xỉu: Rutherford nhìn mình, đời này sống thế là đủ rồi!
Ngay sau đó, ông nói với Từ Thiếu Khiêm: “Được đấy. Mới đầu thầy không muốn để em rời khỏi Cambridge, bây giờ nhìn lại, có lẽ lựa chọn của em là chính xác. Chỉ mới bốn năm mà dưới tay em đã xuất hiện lớp lớp nhân tài.”
Sở Vọng nghĩ bụng: Nhưng người có học trò khắp thiên hạ chính là ngài! Không chỉ ngài, mà rất nhiều học trò của ngài cũng sắp có học trò khắp thiên hạ! Ví dụ như trợ lý Wilson đang đứng cạnh ngài lúc này đây, còn cả người học trò xấu tính đang đứng sau lưng ngài, người không được ngài tán thưởng nữa —— anh ta chính là nhân vật chủ chốt của dự án Manhattan, là cha đẻ của bom nguyên tử đấy!
Trong lúc cô đang suy nghĩ miên man, thì chàng thanh niên Oppenheimer xấu tính không ai tán thưởng đã khinh thường hừ một tiếng.
Lúc này Rutherford mới giới thiệu Từ Thiếu Khiêm với anh ta: “Robert Oppenheimer, năm cậu rời Cambridge đã gặp cậu ấy.”
Oppenheimer tự động bắt tay với Từ Thiếu Khiêm, lạnh lùng nói: “Từ, tôi đã gặp anh rồi. Năm anh rời trường, tôi muốn làm học trò của thầy nhưng bị thầy từ chối nhiều lần. Mọi người nói vì chuyện này mà tôi ghi hận, nên bất luận thầy ấy đi đâu, hễ tôi nghe được là nhất định sẽ bám theo. Ở phòng thí nghiệm châu Âu có một lời đồn thế này: Đời này Oppenheimer không có duyên làm học trò của Rutherford, cho nên rất ghét tất cả học trò của ông. Từ, anh phải cẩn thận đấy.”
Rutherford bật cười: “Thầy cũng không biết vì sao lại dẫn cậu ta đến nữa. Nhưng trước khi xuất phát, thầy có gửi điện báo cho cậu ta, mời cậu ta đi thuyền đến. Vậy mà ngày thứ ba sau khi gửi điện báo, cậu ta đã xuất hiện rồi. Từ lúc nào mà thuyền đi từ Hà Lan đến Anh lại chạy nhanh như vậy?”
Khi mọi người cười phá lên thì Sở Vọng lại gào thét trong lòng: Đúng là đại lão! Giác quan thứ sáu của ngài đúng là chính xác. Ngài không nhìn nhầm người này đâu —— anh ta quả thực khó lường!
Cười xong, Rutherford mới nghiêm mặt nói, “Chờ thêm mấy tuần nữa để tàu của đại sứ Anh đến Hương Cảng, đến lúc đó sau khi làm rõ thỏa thuận với chính phủ nước em, thầy sẽ gửi thư đến đại học Rome, Phòng thí nghiệm Leiden và Đại học Vật lý và Hóa học Paris để mời một vài người quan trọng, lấy danh nghĩa là vì bài phát biểu về “Ngôi sao đặc” của em.”
“Mời Enrico* và vợ chồng nhà Curie?” Từ Thiếu Khiêm hỏi.
(*Enrico Fermi là nhà vật lý lý thuyết và thực nghiệm người Ý.)
Rutherford gật đầu.
Một lúc sau, ông thở dài nói, “Thầy vẫn luôn tự hỏi, không biết em ở đây thì có tiền đồ thế nào? Sợ sẽ chôn vùi em. Nhưng không ngờ là em đã làm được rồi.”
Từ Thiếu Khiêm cười cười, “Nhưng vẫn cứ gây ra rắc rối thầy ạ. Là một chuyện trọng đại, mang tính toàn nhân loại.”
Rutherford nói, “Thầy chỉ sợ chuyện em xử lý khó mà giải quyết được. Vì thế nên khi vừa nhận được thư của em, thầy đã lập tức xin nữ hoàng một thân phận không chính thức trong chính phủ, liên lạc với các nhà vật lý và chính quyền Anh, cũng giám sát các đại sứ Anh xuất phát từ Anh. Ngoài ra, thầy còn thường xuyên nghe nói, chính quyền và binh lính Anh ở thuộc địa có tính khí rất xấu. Thế nên thầy lo em mà xử lý thì sẽ khó giải quyết —— vì vậy thầy mới đến đây nhanh nhất có thể.”
Từ Thiếu Khiêm gật đầu, “Mọi người đều đang ở phòng thí nghiệm bên cạnh —— bọn họ đã đợi rất nhiều ngày rồi.”
Rutherford gật đầu. Từ Thiếu Khiêm đẩy cửa ra, đoàn người sải bước đi trên hành lang.
Rutherford nhìn thoáng vào phòng thí nghiệm, Từ Thiếu Khiêm làm tư thế “mời”.
Rutherford bước vào phòng thí nghiệm. Tất cả mọi người có mặt ở đấy đều nhìn ông đi vào, im lặng chờ ông lên tiếng.
Sở Vọng cũng chạy nhanh về chỗ của mình, ngoan ngoãn ngồi xuống.
Dừng một lúc, ông đi thẳng vào chủ đề:
“Có lẽ các anh chị rất tò mò không biết vì sao tôi lại đến đây.
Tôi đến đây với một thân phận không chính thức, khẩn cầu các anh chị cùng tôi chung tay bảo vệ một bí mật trọng đại. Nhưng rất tiếc, tôi không có quyền nói cho các anh chị biết rốt cuộc bí mật đó là gì, vì sao chúng ta phải đấu tranh vì nó.
Nhưng tôi tin rằng, một nhóm người trong số chúng ta sẽ nhanh chóng đoán ra bí mật đó là gì. Cũng vì vậy mà chúng ta phải bỏ ra một cái giá tương đương vì nó;
Sau khi trao đổi ổn thỏa với chính quyền, kế hoạch này sẽ chính thức được khởi chạy. Và từ khắc đó trở đi, chúng ta sẽ mất đi một phần tự do cũng như một số quyền lợi về truyền tin và riêng tư: mỗi một phong thư gửi ra ngoài hay một cuộc điện thoại gọi đi đều có thể sẽ bị nghe lén giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt thậm chí là thu hồi; hay thậm chí mọi nhất cử nhất động của chúng ta đều bị theo dõi giám sát; mỗi một quyết định sai lầm của chúng ta đều có thể bị đưa ra xét xử tại tòa án quốc tế.
Khoa học không có biên giới. Khoa học là tài sản thuộc về nhân loại. Nhưng tôi cho rằng, khi nó đẩy tính mạng con người đến bờ vực nguy hiểm, thì các nhà khoa học nên là những người đứng đầu sóng gió, dốc hết sức mình vì nó.
Nếu trong số các anh các chị cảm thấy khó chịu vì gò bó hay sợ hãi, vậy thì hãy rời đi ngay lúc này, trở về nơi mình muốn về. Như thế, các anh chị sẽ không còn liên quan đến bí mật này nữa.”
Nói xong một tràng dài, ông đưa mắt nhìn sáu mươi người trong phòng thí nghiệm.
Căn phòng vẫn lặng như tờ. Không ít người đưa mắt nhìn nhau, mà điều khiến tất cả kinh ngạc gấp bội đó là:
Không một ai rời đi.
Ông hỏi lại: “Giờ rời đi vẫn kịp.”
Một giây, hai giây… Thời gian chậm rãi trôi qua.
Tất cả vẫn ngồi yên tại chỗ, không ai nhúc nhích.
Đúng lúc này, Chandra đột nhiên nghiêng đầu hỏi: “Hoffman! Không phải trước đó anh nói muốn từ chức à!”
“Gì! Tôi nói thế bao giờ?”
Rutherford hỏi: “Vậy bây giờ anh có ý gì?”
Hoffman đỏ mặt gãi đầu, đứng dậy, xấu hổ hỏi, “Thưa giáo sư Rutherford, tôi chỉ có một câu hỏi.”
“Mời anh.”
“Thư tôi viết gửi về vợ đang Đức cũng sẽ bị kiểm tra ư?”
“Nếu như là nội dung khiến người ngoài phải đỏ mặt thì tôi thành khẩn đề nghị anh, nội trong tuần này nên viết nhiều nhiều rồi gửi đi một lần… Nếu như để muộn hơn thì có lẽ chúng tôi sẽ đón vợ anh đến Trung Quốc.”
Trong tiếng cười của đám đông, Sở Vọng lại vô hình rung động.
Khi khoa học dần tiến bộ, gây nguy hiểm cho an nguy của nhân loại, thì những nhà khoa học đã xông pha lên đầu, cống hiến hết mình vì nó.
Thế nên mới không một ai rời đi.
Tốt quá rồi.
***
Trước khi tự do bị hạn chế hoàn toàn, thì buổi lễ đính hôn của Di Nhã đã cho cô một cơ hội tốt để ra ngoài hóng gió.
Một tuần sau, ở trấn Nguyên Lãng.
Đó là một ngày đẹp trời, giữa những cơn mưa phùn của mùa đông, thì thật hiếm khi có một ngày trời nắng chan hòa như thế.
Tuy nói biệt thự có vườn hoa nằm ở trấn Nguyên Lãng, nhưng thực chất là nằm trên núi sát biên giới trấn. Rất nhiều nhân vật quan trọng không muốn đi bộ nên lái thẳng xe đi lên từ sau núi. Những người đến đây lần đầu thì muốn ngắm phong cảnh trước khi đến nơi, nhưng xe chỉ có thể đi đến giữa sườn núi.
Trấn Nguyên Lãng khá là lạc hậu, từ chỗ này lên núi thì có thể ngồi kiệu tre hoặc đi bộ. Vốn là vùng núi vắng bóng người, thế mà khi bước xuống xe,, đột nhiên có một đám phu kiệu hét lớn đi đến xúm quanh các bà các cô, dọa mọi người giật mình. Những cô gái da trắng hay từ nước ngoài về đều cảm thấy mới mẻ, thế là chọn ngồi kiệu.
Từ đằng xa, Sở Vọng trông thấy Tiết Chân Chân đi sau bà Kiều, cô ấy mặc một chiếc váy truyền thống màu vàng nhạt, hai mắt sáng rực nhìn chằm chằm cỗ kiệu, nom có vẻ chộn rộn.
Bà Kiều nhận ra tâm tư cô nàng, nhưng có lẽ cảm thấy tại buổi lễ đính hôn của nhà “suýt là thông gia”, nếu trong nhà có con gái muốn ngồi kiệu thì sẽ mất thể diện, thế là bà trợn mắt, để cô nàng bỏ đi suy nghĩ đó.
Bà Cát đi cùng Sở Vọng, thấy cô cứ nhìn về phía bà Kiều thì cũng nhìn sang. Nhìn một lúc lại thấy buồn cười, hai ba bước đi lên khoác vai Chân Chân, cười nói với bà Kiều, “Chị Kiều à, Di Nhã nhớ con bé này lắm rồi, chúng ta là khách cũng đừng để chủ đợi lâu quá; ngồi kiệu sẽ nhanh hơn đi bộ, mà ngài Tạ cũng không phải chờ lâu, thế nào?”
“Cô Cát đây đã đích thân mời thì sao có thể không đi được? Chân Chân, phải học tập thái độ của dì Cát đấy.” Bà Kiều mỉm cười tươi tắn, nhưng có lẽ lúc này đang âm thầm nghiến răng nghiến lợi. Sở Vọng cười nhìn bà Kiều, bà Kiều liếc nhìn cô, lại bổ sung, “Nhìn Sở Vọng đi, phóng khoáng nhanh nhẹn, càng ngày càng xuất sắc.”
Sở Vọng chẳng có lý gì phải nịnh bà cả. Lễ phép chào hỏi xong thì cùng Tuệ Tế và Mật Thu đi cuối hàng. Dân cư thưa thớt, ẩn trong những bụi cây cao thấp mọc san sát nhau là những chùm phượng vĩ, dưới ánh nắng mặt trời, những hạt bụi li ti bay trong không khí trở nên ngào ngạt. Nhìn xuống khe núi, thỉnh thoảng lại có tiếng sột soạt truyền tới, không biết là con thú hay con chim nào, hay là tiều phu trong núi đi ngang qua.
Đi thêm một đoạn nữa thì có một căn nhà gỗ màu đen đập vào mắt, biển số nhà rơi xuống, bên ngoài lưới sắt là là mấy người Ấn đội khăn che đầu. Sở Vọng tò mò nhìn sang, đột nhiên bên cạnh xuất hiện một người, người đó lên tiếng giải thích, “Đó là đồn cảnh sát.”
Sở Vọng nghiêng người ngẩng đầu nhìn, bất chợt cười, “Ồ, là người cùng nghề với anh Tạ sao?”
“Ừ, cùng ngành. Có điều lính tuần bên này là người Ấn.”
Sở Vọng gật đầu, nghĩ bụng; dù gì cũng là các chú cảnh sát đầy kính trọng. Chậm rãi đi về phía trước, Sở Vọng lại hỏi, “Sao anh không cùng người nhà đi từ sau núi lên?”
Tạ Trạch Ích không đổi sắc đáp, “Vì tôi biết cô ba muốn đi lên từ phía trước núi.”
Sở Vọng cố không trợn trừng mắt, lại cười đùa, “Chẳng nhẽ ngài Tạ vẫn đang dỗi anh à?”
Tạ Trạch Ích lại cười, “Ừ. Trong nhà mời khách mà không hề có lấy một người thông báo với tôi, muốn tôi không mời mà tới đây mà.” Chợt anh dừng bước, cho cô nhìn cổ áo âu phục màu xám, “Đến bộ đồ này cũng muốn tự tôi phải đi nhờ người ta may, em xem có thảm không?”
Sở Vọng vui vẻ ghé đầu tới nhìn bộ âu phục kia, thấy phía dưới cổ áo có đường thêu quen thuộc, đột nhiên ơ lên, “Anh biết ngài Saumur hả?”
“Saumur?” Tạ Trạch Ích nhìn thẳng vào cô, suy nghĩ rồi đáp, “Không, nhưng tôi nghe nói là Frank Luca.”
Nghe thấy cái tên này, Sở Vọng chợt mở to mắt. Dừng một lúc, cô hỏi, “Ngài Luca này…”
“Là một thiếu tá lục quân người Anh đầy tôn kính, mười năm trước bất hạnh qua đời.”
“Tử trận?”
“Không hề. Thậm chí vẫn còn sống sau trận Verdun*.”
(*Trận Verdun là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là trận chiến kéo dài nhất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và là trận đẫm máu thứ hai sau Trận Somme (1916). Chiến dịch kinh hoàng này cũng được xem là trận đánh lâu dài nhất trong lịch sử, với thời gian kéo dài đến 10 tháng.)
Vẫn còn sống sau cỗ máy xay thịt Verdun á?!
“Vậy sau đó thì sao?”
“Không kịp hưởng thụ vui sướng thắng lợi, càng không được phong thưởng vì chiến công hiển hách. Lúc đang điều trị ở bệnh viện lục quân, vì ông bị tố cáo một tội danh mà mang theo cơ thể đầy mảnh vỡ lựu đạn rời đi, cuối cùng chết trên đường bị trục xuất.”
Nghe Tạ Trạch Ích bình tĩnh kể xong, Sở Vọng lâm vào im lặng.
Tạ Trạch Ích cũng im lặng đi cạnh cô, không nói nhiều lời.
Qua một lúc sau, cô hỏi, “Là tội danh gì mà lại đối xử tàn nhẫn với một công thần như vậy?”
Tạ Trạch Ích hồi tưởng, sau đó nói, “Tuy hai mươi năm trước người Anh đều biết chuyện này. Nhưng, nếu như em thật sự muốn biết thì có lẽ nên đi hỏi… Ừm, người thợ may nước Pháp kia. Xem ông ta có chịu nói cho em biết không.”
Từ năm 186x trở đi, ở Anh đã bãi bỏ luật treo cổ người đồng tính, đổi thành thiến và trục xuất.
Thật ra dù Tạ Trạch Ích không nói, Sở Vọng cũng đoán được đại khái. Nhưng bởi vì đoán được, rồi lại liên hệ với bức ảnh của ngài Saumur, trong lòng cô càng cảm thấy thê lương, bao phen cảm xúc hòa lẫn vào nhau.
Lại đi lên một đoạn, những nhành cây ngoằn ngoèo ở trên cao vươn ra ngoài đường, suýt thì đâm trúng trán Tạ Trạch Ích —— có lẽ công nhân sửa đường cũng không biết sẽ có người cao như Tạ Trạch Ích leo núi. Càng đi lên thì càng xuất hiện nhiều biệt thự. Người ngồi kiệu đã đi lên trước, còn Tuệ Tế và Mật Thu đi bộ đằng sau cố ý đi chậm vì không muốn làm phiền hai người nói chuyện. Sở Vọng nghĩ bụng, đúng là làm khó người tay chân dài như anh ta phải đi chậm theo cô.
Đang tính khen đôi câu trước hành động lịch thiệp của anh, thì bất chợt trong một biệt thự gần đó có một con chó đen nhỏ mập mạp lao ra, nhe răng sủa gâu gâu với Sở Vọng. Cô cười vẫy tay với con chó kia nhưng lại khiến nó sủa dữ hơn, có vẻ muốn xông lên. Từ trước đến nay, nếu bạn không sợ chó thì chó sẽ sợ bạn, tuyệt đối đừng dữ với nó.
Cô đang ngạc nhiên thì con chó kia lại nghiêng đầu —— Tạ Trạch Ích vừa nãy còn đứng cạnh cô, không biết từ lúc nào đã đi nhanh lên trước ba bốn mét. Ngoài mặt vẫn bình tĩnh, nhưng đã có khuynh hướng nhấc chân bỏ chạy.
Lúc này, một bà tu nữ tóc bạc, tròng mắt màu xanh bật cười chạy ra, nói: “Cậu Tạ đấy à, tôi còn đang hỏi ngài Tạ về cậu đấy, sao nghe nói cậu nhận hàm ở Anh về rồi mà không thấy cậu đâu… Louis XVIII, đi ra! Đi ra! Đừng dọa ngài trung úy của chúng ta.” Rồi bà cười nói với Tạ Trạch Ích, “Cậu Tạ đừng sợ, nó không cắn đâu.”
Tạ Trạch Ích: “…”
Tạ Trạch Ích: “Tôi không sợ chó.”
Bà ta vừa đuổi chó vừa cười nói, “Trước kia khi lính tuần Ấn chưa đến, chúng tôi sợ trên núi bất ổn nên nhà nào cũng nuôi chó. Hồi trước khi ngài huân tước dẫn cậu lên núi, cậu chẳng khóc từ dưới chân núi lên đến đỉnh núi còn gì. Cậu bé xinh xắn như thế lại khóc thảm đến vậy, nữ tu chúng tôi cũng đau lòng lắm. Chậc chậc, đúng là đứa trẻ đáng thương.”
Tạ Trạch Ích: “… Nhờ phúc của sơ nên giờ không sợ nữa.”
Sở Vọng đi đằng sau bật cười, tu nữ kia nói tiếp, “Đi lên trên nữa, nhà Leeds và Cát Mỹ đều nuôi mấy con chó, người nhà đều đến tiệc đính hôn cả rồi, không ai trông nhà đâu. Nếu cậu mời tôi đi cùng thi tôi sẽ dẫn cậu đi đường vòng.”
Sở Vọng cười hỏi, “Thế nào đây anh Tạ? Còn muốn lên núi với tôi nữa không?”
Tạ Trạch Ích nở nụ cười lúng túng, ho khẽ hai tiếng, “Vậy tôi đành bồi tội với em sau vậy.”
Nay hương Cảng cũng là một vùng lớn, từ thống đốc đếm xuống thì đếm đầu tiên là ngài huân tước Tạ, sau đó mới là các tu nữ có danh tiếng. Trên núi toàn là người quen, vì vậy chỉ cần yêu đương một hai hôm là toàn Hương Cảng sẽ biết tin liền. Nếu cô là Tạ Trạch Ích thì có lẽ sẽ không dễ dàng dẫn bạn gái về, nếu không, chỉ một chút sơ sẩy là sẽ thành tin tức lớn.
Đưa mắt nhìn Tạ Trạch Ích và tu nữ đi xa, Sở Vọng chậm rãi đi dạo lên núi. Leo lên đỉnh núi rồi nhìn về phía sau, trong những lùm cây rậm rạp xum xuê, mơ hồ trông thấy bóng dáng của trấn Nguyên Lãng; lại tiến tới trước rồi nhìn xuống, đường chân trời xanh thẳm nối liền với biển xanh, ôm trọn cả tòa thành Hương Cảng màu xám.
Tuệ Tế và bà Cát đã đến nơi trước, Mật Thu đứng lại chờ cô, ngạc nhiên hỏi, “Cô ba, sao không thấy cậu Tạ đâu?”
Sở Vọng còn chưa kịp cười giễu Tạ Trạch Ích thì Chân Chân từ đằng sau bụi đu đủ đã nhảy ra, ôm eo cô ép hỏi, “Nói! Em qua lại với cậu Tạ từ bao giờ thế hả?”
“Qua lại cái gì chứ? Cũng không phải là người ở Trường Ba Đường Tử*.”
(*Trường Ba Đường Tử là một dãy các thanh lâu cao cấp ở Thượng Hải trong thời kỳ vãn thanh, các cô gái ở trong này có trình độ văn hóa cao và biết cầm kỳ thi họa.)
Chân Chân cười, “Ấy, Sở Vọng của chúng ta giờ lợi hại rồi, còn biết cả Trường Ba Đường Tử nữa kìa.”
Mật Thu thấy hai người cười đùa thì thức thời tránh đi.
Đợi Mật Thu đi rồi, Sở Vọng mới ôm mặt cô nàng, nghiêm nghị hỏi, “Em phải hỏi chị đấy, rốt cuộc chị với Diệp Văn Dữ là sao thế hả?”
“Dì Cát mới mắng chị xong, giờ đến lượt em hả!” Chân Chân gào khóc, “Em buông tay ra đi đã!”
Sở Vọng lại véo hai cái rồi mới miễn cưỡng buông tay, “Thẳng thắn sẽ được khoan hồng, nếu kháng cự sẽ bị trị nghiêm khắc.”
“Cũng chẳng có gì cả.” Chân Chân xoa mặt, kéo cô ra sau bụi cây đu đủ, nói, “Hồi xưa ấy, cục phó Thẩm của cục vận chuyển hàng hải Thượng Hải cũng chỉ là một vị quan ở Phụng Thiên huyện Khang Bình. Năm ngoái Đông Bắc đầu hàng Nam Kinh, cục phó Thẩm nịnh nọt khắp mới lên được cái chức kia, tự dưng cả họ được nhờ. Cô con gái rượu Thẩm Nguyệt Anh đến Thượng Hải, vào trường nữ sinh tư thục Trung Tây, cũng coi như có tiếng trong đám thiên kim tiểu thư. Chẳng qua ngươi ta nể mặt cha nó nên mới gọi nó là danh môn khuê tú. Thế mà nó tưởng thật, đắc chí lắm, còn tự cho là mình hơn người. Chẳng qua là một con nhỏ nhà quê, ai thèm để mắt đến nó?”
Sở Vọng im lặng một lúc rồi mới nói, “Người nhà Diệp Văn Dữ để mắt rồi đấy, muốn để anh ta cưới cô ấy, không biết anh ta có tính toán gì không nữa.”
“Anh ấy không chịu kết hôn, người nhà anh ấy dám làm gì được chứ! Chẳng lẽ còn chạy tới Hương Cảng trói anh ấy về bắt ký tên?”
“Nếu tới thật thì sao?”
“Nếu tới thật…” Chân Chân tức giận, “Ghê gớm lắm là nói ra thôi!”
“Nếu nhà anh ta không chịu?”
“Vì sao lại không chịu? Nhà anh ấy nghĩ mình là ai hả! Cũng chẳng phải hoàng thân quốc thích.”
Sở Vọng thở dài. Tuy không phải hoàng thân quốc thích nhưng dù gì cũng có khu vực của mình, cũng cần khai cương thác thổ.
Thế là lại hỏi: “Cô út nói sao rồi?”
“Hôm nay ngài Tưởng mời Diệp Văn Dữ đến, dì ấy nói, lát nữa dì ấy sẽ gọi Diệp Văn Dữ tới hỏi. Nếu cảm thấy anh ấy đáng tin thì bảo chị không cần làm gì cả, dì ấy sẽ nghĩ cách.”
Dĩ nhiên lời bà Cát nói còn nửa vế sau: nếu không đáng tin, thì cháu nên buông tay sớm đi.
Nhưng cô nhìn vào mắt Chân Chân, có lẽ Chân Chân đã lược bỏ luôn vế sau rồi.
Chân Chân hừ hai tiếng, “Dù gì tốt nghiệp xong cũng về Thượng Hải, nếu không được nữa thì đi du học với anh ấy thôi. Anh, Mỹ, Bỉ, chân trời góc biển xa như thế, không lẽ người nhà anh ấy sẽ bắt được à?”
Sở Vọng nhìn cô nàng chăm chú. Lời đến khóe môi chỉ biết hóa thành tiếng cười.
Sau đó quay sang nói, “Đã đến buổi lễ bên kia chưa?”
Chân Chân cũng là người không tim không phổi, vừa rồi còn tức giận là thế, vậy mà chớp mắt sau bao phẫn nộ đã bị ném ra sau đầu. Cô nàng cười nói, “Vừa rồi Di Nhã mới nói với chị, đến tiệc đính hôn lần này đều là mấy người có vai vế bậc cha chú, phải cúi đầu chào hỏi liên tục, chán muốn chết rồi. Nó bảo chúng ta đừng tới, kêu chị dẫn em đến vườn trái cây chờ nó —— em đừng nhìn mấy thứ cây quả xấu xí này nữa.”
Sở Vọng còn đang nhìn cây đu đủ chưa chín trước mặt thì Chân Chân đã kéo cô chạy đi. Lướt qua những bức tường xanh cùng những căn nhà Tây màu trắng, đi đến một chiếc cầu thang đá cao cao nhiều bậc. Bước lên cầu thang, hóa ra là một vườn trái cây tươi tốt, cây mọc xanh um từng hàng chỉnh tề, ở giữa có một lối đi nhỏ, dẫn thẳng đến một căn nhà màu đen trông khá đồ sộ. Căn nhà đó làm bằng gỗ, phủ đầy dây leo xanh.
Bên ngoài căn nhà trồng những khóm hoa xanh đỏ, một người làm vườn vóc dáng khá lùn, da ngăm đen mặc quần lụa, đang cầm bình đồng tưới nước cho hoa. Ba người giáp mặt, Chân Chân hỏi: “Là bác A Kim đấy à? Di Nhã bảo bọn tôi đợi cô ấy ở đây.”
A Kim cười một tiếng với hai người, để lộ hàm răng sứt mẻ, vàng khè vì khói thuốc, cầm bình tưới mở cửa cho hai người.
Trong nhà tối đen như mực, A Kim vặn sáng một ngọn đèn, cả hai ngạc nhiên hô lên —— Bốn bức tường trong phòng, từ mặt đất cho đến đỉnh đều chất đầy sách, và ngay dưới ngọn đèn là một sân khấu đơn giản.
Chân Chân *ấy* một tiếng, đi hai bước trong phòng, nói, “Ban nãy còn nói Đường Ba Trường Tử, sao chưa gì Di Nhã đã dẫn chúng ta đến một nơi như dành cho Thư Ngụ* thế này?”
(*Trước giải phóng, kỹ nữ cao cấp ở Bến Thượng Hải được gọi là Thư Ngụ, cũng là cách gọi chỉ kỹ nữ bậc nhất Trung Quốc xưa.)
A Kim lắc đầu nhìn cô ấy, để hai người lại trong phòng, còn mình xoay người đi ra ngoài.
Trong phòng chỉ có duy nhất một chiếc bàn đặt bên cạnh kệ sách, bên trên là mấy quân bài nằm lộn xộn. Hai người lại gần, đưa mắt nhìn nhau.
“Em biết không?”
“Sao em biết được?”
Chân Chân bĩu môi, đang định sờ vào mấy quân bài kia thì bác A Kim cầm bình đựng trái cây đi vào, đặt lên bàn cho hai người ăn, bên trong chứa đầy trái cây nhiệt đới mùa đông: đu đủ, ổi xá lị, chuối tiêu…
Nhưng Chân Chân không chú ý đến trái cây mà chỉ hỏi: “Bác A Kim, trò này chơi thế nào?”
Bác A Kim lột một trái chuối đưa cho Sở Vọng, sau đó cúi đầu xào bài, xếp bài thành một dãy dài rồi đẩy ngã, làm động tác tay ra hiệu cho Chân Chân cũng làm thế. Chân Chân thấy vui, thế là cũng xếp thành một hàng dài như bác ấy làm. Sau đó, bác A Kim nhắm mắt, chắp hai tay lại, Chân Chân cũng làm theo.
Ông gộp hai chồng bài lại thành một, châm một nén hương, rút một quân bài ra, trên đó viết: Trung hạ.
Hai người lặp lại ba lần. Kết quả của ba lần là: Trung hạ, thượng thượng, hạ hạ.
Chân Chân lập tức giở sách giải quẻ ra dò, bên trên viết: Thu hoạch được không gì không lợi, nhưng chớ mừng, chỉ là lâu đài cát.
Sở Vọng nghiêng đầu nhìn, hỏi, “Nghĩa là ý gì?”
Chân Chân không đáp. Chỉ nghiêng đầu quẳng cuốn sách đi.
Bác A Kim vỗ vào Sở Vọng, ra hiệu cô thử xem. Cô cười khoát tay, “Tôi không tin trò này.”
Bác A Kim cứ nài nỉ mãi, cô suy nghĩ, muốn cầu tiền đồ quốc gia thì dĩ nhiên phải tin vào khoa học, không thể mê tín; vậy không bằng cầu duyên chơi vậy.
Nghĩ đến đây, cô dựa theo những gì bác A Kim đã làm, lại rút ba quân bài.
Hạ hạ, trung hạ, hạ hạ.
Trừ lần thứ hai được trung hạ ra, cả hai lần kia đều là hạ hạ.
Bác A Kim lắc đầu, xáo bộ bài lại. Sở Vọng cười giở sách ra, bên trên viết: Quẻ thủy. Phụ thả thừa, trí khấu chí*.
(*Quẻ 40 trong Kinh Dịch. Giảng: Hào này âm nhu, bất chính, bất trung mà ở trên cùng nội quái, tức như kẻ tiểu nhân ở ngôi cao, không khác kẻ vừa mang đội (người nghèo) mà lại ngất ngưởng ngồi xe (như một người sang trọng), chỉ tổ xui cướp tới cướp đồ của mình thôi.)
Cô hỏi Chân Chân: “Có nghĩa là gì?”
Chân Chân liếc nhìn, “Những hai hạ hạ mà em còn tra làm gì. Nói chung cũng chẳng phải ý tốt.”
Chân Chân bị quẻ bói làm cho nản chí, dịch sang bên cạnh lật sách chơi. Sở Vọng nghĩ ngợi: cái quẻ này, kể ra thì cũng không biết nên coi là của ai.
Vậy là cô chỉ cười cười, cầm đu đủ ăn. Đu đủ ruột đỏ ngọt bất ngờ.
Vừa ăn xong một quả đu đủ thì từ đằng xa, cô nghe thấy tiếng cười của Di Nhã —— “Bác A Kim, các cậu ấy đã đến chưa?”
Ngay sau đó, Di Nhã bước vào nhà: cô nàng trang điểm đậm đeo trang sức tinh xảo, khoác áo lông chồn bên ngoài váy lụa màu hồng nhạt, bên dưới là đôi tất trắng và giày cao gót trắng.
Sở Vọng cười nói, “Sao cô dâu sắp cưới không ở buổi lễ tiếp đãi khách khứa thế?”
Di Nhã trợn mắt, “Nói là tiệc đính hôn của mình, thế mà tới đây toàn người xã giao, tóm lại cũng chẳng phải là chuyện của mình. Mình ở đó cũng chẳng khác gì bình hoa, trái lại còn làm người ta ghét. Cứ để ngài Tưởng xã giao với mấy bà tám miệng rộng đó là được rồi, mình không có tâm trạng. Đói bụng lắm rồi, vì mặc chiếc váy này mà cả sáng nay mình không được ăn tí gì, gặp ai cũng phải cười, Sở Vọng, lột giùm mình quả chuối với.”
Ăn chuối xong, cuối cùng cô nàng cũng thở ra một hơi, nghiêng đầu nhìn đống bài lộn xộn trên bàn, nói, “Bác A Kim bói bài cho hai người à? Hồi nhỏ mình cũng bói một lần, nói mình nhất định phải tìm một người lớn hơn mình 20 tuổi —— ngài Tưởng đúng 37, không ngờ bác ấy bói đúng rồi.”
Nghe xong câu đó, sắc mặt Chân Chân càng đen thêm, ngồi yên một chỗ cầm sách đọc, không nói năng gì.
Sở Vọng cười cười nhìn cô ấy, Di Nhã lập tức hiểu ý, cười nói, “Ngày trước người ở đây là di lão tiền triều, bác A Kim là quản gia của ông ấy —— là một người câm điếc. Sau này di lão qua đời, Bác ấy vẫn giữ khu vườn, trồng đủ loại hoa quả. Ở Hương Cảng nhiều năm như thế rồi, nhưng mình chưa bao giờ thấy hoa quả nơi nào ngon bằng ở đây cả.”
Thấy Chân Chân vẫn đen mặt, cô nàng nói tiếp, “Trong nhà có mấy bà mẹ rất mê tín. Thứ này à, không Trung không Tây, chẳng qua là để thỏa mãn tinh thần thôi chứ không tin mấy. Hai người biết không, lúc trước bác A Kim có bói cho anh mình, quẻ kia còn nói: anh ấy có mệnh cô độc suốt đời —— giờ ảnh lớn thế rồi, không biết đã thay bao nhiêu cô bạn gái, thế mà nói cô độc suốt đời, ai mà tin nổi?”
Chân Chân ngồi trong góc cười phì thành tiếng, cuối cùng cũng vui trở lại. Bác A Kim cầm đến một bình thủy tinh đựng rượu vang trắng, Chân Chân nhấp thử một hớp, khen, “Ngọt quá.”
Di Nhã lại nói, “Nếu mùa hè đến đây, nho ở trong vườn cũng ngon lắm; nhưng bây giờ tới thì chỉ có thể uống nước nho thôi… Loại rượu này được ủ theo kiểu của Đức, gọi là rượu Federweisser. Hồi hè mới ủ nên vị khá ngọt, không quá say. Ủ thêm mấy tháng, đến giờ mới có thể gọi là rượu.”
Hôm nay là ngày vui của Di Nhã, nên Sở Vọng cũng uống với cô ấy mấy ly. Tuy hiện tại độ cồn không quá cao, nhưng do tâm trạng Di Nhã đang rất vui nên chưa gì “rượu không say người mà người tự say”, chỉ chốc lát sau hai má đã hây hây. Cô thở dài, “Nhanh thật đấy, cũng sắp tốt nghiệp rồi.” Rồi cô ấy đi tới vỗ vai Chân Chân, “Nào, hát một bài với mình nào.”
Không đợi Chân Chân kịp phản ứng, cô nàng đã leo lên bậc thang sân khấu, dưới ánh đèn tù mù, chiếc váy lụa màu hồng làm nổi bật lên gò má hồng hào của cô, đôi mắt lấp lánh sáng bừng.
Không biết từ lúc nào, bác A Kim đã ôm một chiếc đàn xếp đi ra, ngồi trên bậc thang, chỉ chờ Di Nhã cất giọng.
“Hát gì bây giờ?” Cô nàng đứng tại chỗ, cười cười nghĩ ngợi, “ —— Chỉ có tên chàng là kẻ thù của em; chàng vẫn là chàng, đâu phải người trong họ Montague.”*
(*TríchThiên tình sử Romeo và Juliet, Phạm Trọng Lệ sưu khảo và dịch.)
Tiếng đàn xếp từ từ vang lên, Sở Vọng vỗ tay theo nhịp.
Chân Chân cười nói, “Vị Romeo Tưởng đang ở ngoài kia tiếp khách thay cậu đấy, có cần tôi mời người ta đến hát kịch với cậu không?”
“Không cần. Chân Chân, tôi biết cậu biết hát, cậu hát cùng tôi đi.”
“Tôi chỉ biết hát kinh kịch Quảng Đông, không biết hát kịch của Shakespeare.”
“Nếu đổi tên khác cho Romeo, liệu có phải là Lương Sơn Bá không?” Di Nhã chớp mắt.
Chân Chân lập tức hiểu ý, cô nàng bật cười, chậm rãi đi lên sân khấu, “Tiểu huynh họ Chúc tên Anh Đài, người thôn Chúc gia ở Thượng Ngu, xin hỏi tiểu thư là…”
Di Nhã hát bằng tiếng Anh: “Em là Juliet nhà Capulet ở Verona. Hãy nói cho em biết, làm sao chàng vào đây được, và sao lại làm vậy? Tường quanh vườn cây vừa cao vừa khó trèo. Chàng là người họ Montague như vậy, ngộ họ hàng em mà biết chàng ở đây thì chàng chỉ có chết.”*
(*Phạm Trọng Lệ sưu khảo và dịch.)
…
Hai người hát kịch bằng tiếng Anh xen lẫn tiếng Quảng, đổi hết lời kịch gốc hát chèn lung tung, ấy thế mà vẫn rất hợp, làm người nghe duy nhất là Sở Vọng vừa ôm bụng cười lăn lộn vừa tấm tắc khen, không để ý có người đi vào nhà, cũng không biết đã đứng sau lưng cô bao lâu, thấp giọng cười nói, “Ồ? Là“Juliet và…”?”
““… Và Chúc Anh Đài”.” Sở Vọng ngẩng đầu nhìn anh, cười nói, “Chào anh Tạ.”
“Chào cô ba.” Tạ Trạch Ích cúi đầu nhìn cuốn sách đặt trên bàn, bất chợt bật cười, “Hạ hạ, trung hạ, hạ hạ. Của ai mà thảm thế?”
“Chính là của kẻ kém cỏi này.” Sở Vọng cười đáp.
“Xin lỗi em vì lời vừa rồi, có điều quẻ đó vẫn tốt hơn so với quẻ của tôi ngày trước.” Tạ Trạch Ích cảm thán, “Không biết nói như vậy có an ủi được em không?”
“Tôi không để bụng đâu. Cơ mà… nghe nói quẻ của anh Tạ cũng khiến người ta cảm thán thở dài.”
“Tôi không tin vào trò này. Dù có cô độc suốt đời thì cũng không phải là chuyện xấu.” Tạ Trạch Ích cầm ổi lên cắn một miếng, nói với vẻ chẳng mấy bận tâm.
Tiếng đàn xếp dừng lại, Di Nhã nhấc váy, mỉm cười chạy xuống, ôm tay Tạ Trạch Ích, “Anh, sao anh lại đến đây!”
“Hát hay lắm.” Anh nói, “Cố ý đến tìm cô ba.”
“Ha?” Di Nhã tò mò.
Tạ Trạch Ích nheo mắt, tay sờ túi áo, lấy ra một chiếc bật lửa kiểu cũ. Quẹt mấy lần nhưng không có lửa.
Anh quay sang nói với Sở Vọng, “Chiếc này đã bị hỏng rồi… Tôi muốn tìm người làm một chiếc mới, đột nhiên nhớ ngày trước ở trên thuyền tới đảo xa, tôi có thấy chiếc bật lửa máy của bạn trai em một lần, thực tình rất muốn có nó. Quý ngài người Pháp kia nói với tôi là em có cách. Vì vậy tôi nghĩ, có thể tôi nên đến hỏi em xem đặt làm nó ở đâu thì được.”
“À, cái đó… Không có nữa đâu.” Sở Vọng nở nụ cười ái ngại, “Nhưng nếu anh muốn, tôi có thể cho anh địa chỉ liên lạc với ngài Dupont, có thể sẽ có những chiếc khác mà anh thích.”
“Vậy làm phiền cô ba rồi.” Tạ Trạch Ích cúi người với Sở Vọng, lại ăn một lát đu đủ, bình phẩm, “Ổi xí muội năm nay hơi đắng, nhưng đu đủ thì không tệ.”
“Rượu Federweisser năm nay ngọt lắm!” Di Nhã cười bảo, “Lát nữa anh ăn cơm ở chỗ bác A Kim hay vẫn là về chỗ tu nữ?”
“Tám giờ rưỡi tối nay anh phải lên thuyền về Thượng Hải. Đến đây thăm mấy đứa rồi phải xuống núi ngay, có lẽ sẽ không ở lại ăn cơm. Chơi vui vẻ nhé.”
Vừa dứt lời, Tạ Trạch Ích xoay người rời đi như một cơn gió. Chỉ trong chớp mắt, trong vườn đã không còn bóng dáng ai.
Sở Vọng âm thầm ghi nhớ: ra về cũng phóng khoáng thật. Tự mình xuống núi, không sợ bị chó rượt khắp núi à?