- Khi đó tôi đã ngây thơ biết bao, tôi đâu biết, một con hồ ly biết nói tiếng người sẽ khiến con người sợ hãi nhường nào. – Tiếng cười đứt đoạn, ký ức đè nặng tâm can, tôi như vẫn còn cảm nhận được rõ ràng nỗi bàng hoàng và đau đớn tột độ khi ấy. – Nó nhặt một hòn đá, ném về phía tôi, vì không có sự phòng bị, tôi bị ném trúng giữa trán, máu chảy như suối.
Cậu ấy nhíu mày, gương mặt nhân từ, thương xót, bàn tay dịu dàng xoa lên trán tôi:
- Nó đã để lại vết sẹo hình hoa sen này sao?
Tôi gật đầu, hậm hực, nheo mắt nhìn ra khoảng trời mịt mù ngoài cửa sổ:
- Sau đó, gia đình thằng bé vội vã chuyển đi nơi khác. Tôi còn ngốc tới mức, không hiểu vì sao họ chuyển nhà… Sau lần đó, tôi phiêu bạt đến rất nhiều nơi, học được rất nhiều ngôn ngữ, nào là tiếng Mông Cổ, tiếng Hán, tiếng Tangut. Mỗi khi tôi có ý định kết bạn với con người, mỗi khi mở miệng cất lời, tôi đều nhận được những ánh mắt khiếp sợ. Ngay sau đó, các thầy mo, nhà sư, đạo sĩ sẽ đến làm phép, họ đốt những tờ giấy kỳ quái, nhảy những điệu nhảy kỳ quái. Cuối cùng thì tôi cũng hiểu, tất cả những điều đó là vì họ sợ tôi. Con người gọi những sinh linh biết phép thuật như tôi là yêu ma…
Tim tôi đau nhói, phải ngừng lại hồi lâu, tôi mới có thể tiếp tục câu chuyện, hai mắt đẫm nước:
- Sau khi trải qua tất cả những điều này, tôi quyết định trở về núi Côn Luân, sống một mình trong sơn động, nơi mà cha mẹ tôi từng sinh sống, và suốt một trăm năm sau đó, tôi không hề mở miệng nói với ai dù chỉ một tiếng.
Cậu ấy nhẹ nhàng vuốt ve lớp lông mịn màng trên lưng tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu ấy thấm vào da thịt, cho tôi cảm giác tin cậy, ánh mắt long lanh, giọng nói của cậu ấy trầm ấm:
- Lam Kha, em đừng đi. Dù người đời có đối xử tàn tệ với em thế nào, ta và Kháp Na tuyệt đối không giống họ. Em cũng biết đó, thời gian đầu khi mới đến Lương Châu, cả bác và hai anh em ta đều rất khó thích nghi, sức khỏe không ổn định, lại không biết tiếng Mông Cổ nên ngoài bác ra, anh em ta không còn người thân và bạn bè nào khác. Em đã đến với ta và Kháp Na giữa lúc chúng ta cô đơn nhất. Chỉ cần em bằng lòng, ta và Kháp Na sẽ là người thân của em. Chúng ta sẽ không cho phép bất cứ ai làm em bị tổn thương.
Vì sao sống mũi tôi lại cay sè thế này? Tôi hít một hơi thật sâu, nghiêng đầu về hướng khác:
- Sở dĩ tôi đi theo cậu ngần ấy năm là vì tôi muốn đạt được mục đích nghe giảng pháp.
- Vậy thì em cứ nghe đi. – Cậu ấy nở nụ cười tươi tắn, khóe môi uốn thành một đường cong tuyệt đẹp. – Nếu phép tu tập của ta mà hữu ích cho việc tu luyện của em thì còn gì bằng! Phật pháp sinh ra vốn là để thuyết giảng cho người có duyên với đạo Phật. Phật Tổ công bằng lắm, ngài độ hóa cho mọi sinh linh. Lam Kha, em là thú linh, kết tụ khí thiêng của cả trời và đất, em xứng đáng để tu tập hơn cả những người tu hành như ta đó.
Tôi ngước nhìn cậu ấy, bắt gặp cặp mắt thuần khiết vô ngần, ánh mắt long lanh, rạng rỡ chiếu sáng cả những góc u tối, ẩn sâu trong tim tôi. Khoảnh khắc ấy, tôi như đắm chìm giữa một vực nước trong veo, hun hút. Đáng ghét quá, có thế mà khóe mắt tôi cũng ướt nhòe.
- Mà không lẽ em đành lòng rời xa Kháp Na ư? Mấy năm qua sống trong Vương phủ, tuy đệ ấy không nói nhưng ta biết cuộc sống của đệ ấy không vui vẻ chút nào. Công chúa… – Cậu ấy thở dài, lắc đầu, hai hàng lông mày xô lại, vẻ mặt xót thương. – Mới mười ba tuổi mà đệ ấy đã phải đối diện và chịu đựng những khốn khổ mà chỉ những người trưởng thành mới phải chịu đựng. Ta không thể ở bên bao bọc, che chở cho đệ ấy, nhưng may mà có em, em đã mang lại niềm vui cho đệ ấy nên ta cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều.
Nhắc đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, nỗi xót thương dâng trào. Chú nhóc đáng thương ấy suốt bốn năm qua đã nếm đủ mùi cay đắng trong phủ Vương gia. Thái độ khinh miệt, lạnh nhạt của Mukaton chỉ là chuyện nhỏ, hễ bực mình là cô ta quăng đồ, đáng ghét hơn là cô ta thường ra tay đánh đập Kháp Na. Thời gian đầu, mỗi lần bị chửi mắng, đánh đập, chú nhóc chỉ biết thu mình vào góc giường, ôm chặt lấy tôi, lặng lẽ khóc. Về sau, bất luận Mukaton có nói gì, làm gì, chú nhóc cũng không hề đáp trả, dù chỉ một tiếng. Hằng ngày, chú nhóc tránh không phải chạm mặt Mukaton như tránh tà, mỗi lần nhìn thấy cô ta là khiếp sợ bỏ chạy như thỏ con đụng phải hổ dữ. Mukaton thường ra ngoài cưỡi ngựa, bắn cung hoặc đi thăm bạn bè, những lúc cô ta không có nhà, Kháp Na mới âm thầm thở phào nhẹ nhõm, tinh thần cũng thoải mái hơn nhiều.
Mỗi ngày, Kháp Na phải học tiếng Mông Cổ một canh giờ, luyện tập cưỡi ngựa, bắn cung, đấu vật một canh giờ, sau đó đến đền Hoán Hóa theo học Phật pháp với bác và anh trai một canh giờ nữa. Ngoài ra, với thân phận là con rể của Vương gia Khoát Đoan, chú nhóc còn phải tham dự các buổi tiệc trong Vương phủ hoặc đi thăm hỏi các quý tộc Mông Cổ trong dòng tộc. Chú bé loắt choắt ấy buộc phải nói những lời khách sáo, lễ nghi của người lớn, phải khoác trên mình đủ mọi thứ mặt nạ của người lớn, phải ép mình đóng vai một người lớn. Tôi cảm thấy xót xa khi nhận thấy nụ cười trên gương mặt chú nhóc ngày càng vắng bóng, mỗi lúc chỉ có hai chúng tôi, tôi ra sức chọc cho chú nhóc cười, cùng chú nhóc chơi những trò chơi con trẻ mà chú nhóc thích. Chỉ những lúc như thế, tôi mới thấy được nụ cười hồn nhiên, tươi tắn nhất mà tôi hằng yêu thích.
Nhiều lần tôi muốn cất lời an ủi chú nhóc nhưng lại không dám. Vết sẹo trên trán cứ mãi ám ảnh và luôn nhắc nhở tôi về những ký ức hãi hùng với vẻ mặt kinh hoàng của con người khi họ nghe tôi nói tiếng nói của họ. Trong lòng tôi, Kháp Na quá ư thuần khiết, đáng yêu nên tôi sợ, nếu biết tôi là yêu tinh, những kỷ niệm đẹp đẽ về chú bé sẽ tan biến trong tôi…
- Nếu biết em nói được tiếng người, chắc chắn Kháp Na sẽ rất vui. – Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, Bát Tư Ba mỉm cười, xoa đầu tôi. – Chắc chắn đệ ấy luôn hy vọng em có thể trò chuyện được với đệ ấy…
r
Tôi nhớ lại lịch sử triều Nguyên, trầm ngâm:
- Quý Do Hãn lên ngôi Đại hãn được một năm thì đột tử, sau khoảng thời gian dài chọn lựa, vị trí Khả hãn được trao cho Mông Kha. Mông Kha là con trai của Đà Lôi (con trai út của Thành Cát Tư Hãn), anh ruột của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Sau khi Mông Kha lên ngôi, chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi.
Chàng trai trẻ trầm tư một lát mới cất lời:
- Tôi nhớ, sách sử chép rằng, để đạt được mục tiêu thống trị, mỗi khi công phá thành công một vùng đất, người Mông Cổ sẵn sàng tiếp nhận tất cả các tôn giáo tồn tại ở vùng đất đó. Bởi vậy, ngoài Saman giáo, hoàng thất Mông Cổ còn tin theo các tín ngưỡng Phật giáo, Kitô giáo, Đạo giáo.
Chàng trai trẻ nhíu mày nhìn tôi, vẻ băn khoăn:
- Hốt Tất Liệt gặp Bát Tư Ba lẽ nào chỉ vì muốn nghe giảng pháp?
Tôi giật mình, chàng trai này thông minh quá! Tôi gật đầu tán thưởng:
- Sau khi chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi, vì là em cùng một mẹ của đương kim Khả hãn nên Hốt Tất Liệt trở thành người có quyền cao chức trọng, được Mông Kha giao nhiệm vụ thống lĩnh quân đội miền Nam. Ông ấy đóng quân ở Lục Bàn Sơn là để chờ dịp chiếm lấy Đại Lý ở Vân Nam. Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn thuộc quyền cai trị của nhà Nam Tống, nếu muốn đến được đất Đại Lý, Hốt Tất Liệt buộc phải vượt qua vùng đất của người Tạng ở Cam Túc và Thanh Hải. Hốt Tất Liệt triệu kiến Ban Trí Đạt là để tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của người Tạng, đảm bảo cuộc hành quân đến đất Tạng được thuận lợi. Không ngờ, Ban Trí Đạt lại cử nhà sư trẻ Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi đi thay mình. Đó là lần gặp gỡ đầu tiên của Bát Tư Ba với Hốt Tất Liệt. Khi ấy, Bát Tư Ba không hề biết rằng, cuộc gặp gỡ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của cậu…