***
“Tôi là Fabio,” cậu bé nói khi họ đã chạy xuống con phố nhộn nhịp. “Và tên cậu là Ciri, phải không?”
“Đúng.”
“Cậu muốn xem gì ở Gors Velen nào, Ciri? Phố Chính? Đại lộ Goldsmith? Hay là quảng trường và khu chợ?”
“Mọi thứ.”
“Hmm.” Cậu bé trầm ngâm. “Chúng ta chỉ có thời gian đến giữa trưa thôi....thế thì đến quảng trường đi vậy. Hôm nay là ngày họp chợ, cậu sẽ có thể nhìn thấy nhiều thứ thú vị. Nhưng trước đó, chúng ta sẽ trèo lên tường thành, từ đó cậu có thể nhìn được toàn cảnh Vịnh và Đảo Thanedd lừng danh. Cậu nghĩ sao?”
“Đi thôi.”
Con phố đầy những chiếc xe hàng được kéo bởi bò hay ngựa, những thợ làm thùng chạy qua lại, những tiếng ồn và khẩn trương. Sự nhốn nháo làm Ciri hơi chóng mặt – cô bé vụng về bước xuống vỉa hè lát ván và giẫm ngay vào một vũng bùn và phân ngập đến mắt cá chân. Fabio chìa tay ra giúp nhưng cô bé phủi đi.
“Tôi tự đi được!”
“Hmm....đương nhiên rồi. Đi nào. Nơi chúng ta đang đứng đây là phố chính của thành phố. Nó gọi là Kardo và nối liền hai cánh cổng, Cổng Chính và Cửa Biển. Đường này dẫn đến tòa thị chính. Cậu có thấy tòa tháp với cột chỉ gió màu vàng kia không? Đó là tòa thị chính. Và ngôi nhà với tấm biển đầy màu sắc kia là một quán rượu tên Áo Ngực. Nhưng, hmm..... chúng ta sẽ không vào đó. Chúng ta sẽ đi qua khu chợ cá trên phố Circuit.”
Họ rẽ vào con hẻm và đến một khu chợ bé xíu nằm kẹp giữa những ngôi nhà. Khu chợ đầy những quầy hàng và thùng gỗ sặc mùi cá. Các lái buôn và người mua hàng tranh cãi nẩy lửa, như muốn át đi tiếng kêu của những con hải âu đang bay lượn trên đầu. Mèo nằm dưới chân tường, giả vờ như không quan tâm chút nào đến những thùng cá ở khắp nơi.
“Cô của cậu,” Fabio bỗng dưng nói, “có vẻ khá nghiêm khắc.”
“Tôi biết.”
“Cô ấy không phải họ hàng của cậu, đúng không? Nhìn cái là biết ngay!”
“Phải? Làm sao cậu biết?”
“Cô ấy rất đẹp,” Fabio trả lời với sự tàn nhẫn, thật thà của tuổi trẻ. Ciri quay lại ngay lập tức, nhưng trước khi cô bé kịp có cơ hội đáp trả với vài lời bình phẩm về tàn nhang và chiều cao của cậu, cậu bé đã kéo cô đi giữa những chiếc xe đẩy, thùng gỗ và quầy hàng, trong khi giải thích tòa tháp đứng giữa khu chợ được gọi là Tháp Kẻ Trộm, rằng nó được xây bằng những viên đá lấy từ dưới đáy biển, rằng những cái cây mọc bên dưới nó được gọi là sung.
“Cậu rất im lặng, Ciri,” cậu bé để ý sau một lúc.
“Tôi á?” cô giả vờ ngạc nhiên. “Hoàn toàn không phải! Tôi chỉ đang lắng nghe những gì cậu nói thôi. Cậu biết rất nhiều đấy. Tôi đang định hỏi....”
“Hỏi đi.”
“Từ đây đến.....thành phố Aretuza có xa không?”
“Không hề! Nhưng Aretuza không phải là một thành phố. Hãy trèo lên tường thành, tôi sẽ chỉ cho cậu. Cầu thang ở phía này.”
Tường thành rất cao và cầu thang hẹp. Fabio thở khó nhọc, bởi vì cậu nói không ngừng. Ciri được cho biết là tường thành bao quanh Gors Velen là một công trình được xây gần đây, có thời gian tồn tại ngắn hơn thành phố - mà đã được xây bởi những người elves – rất nhiều, rằng nó cao hơn 10 mét và kiểu công trình này được gọi là tường châu mai, làm từ đá cắt gọt và gạch phơi nắng, bởi vì loại vật liệu này chịu được tốt nhất những nhát đập từ những chiếc búa công thành.
Làn gió biển mát rượi thổi qua đỉnh bức tường. Ciri vui sướng đón nhận nó sau khi đã ở trong bầu không khí ngột ngạt của thành phố quá lâu. Cô bé ngồi xuống mép tường, nhìn ra bến cảng ngập tràn sắc màu từ những mái buồm.
“Cái gì kia, Fabio? Ngọn núi đó?”
“Đảo Thanedd.”
Hòn đảo trông có vẻ rất gần. Và trông không giống một hòn đảo chút nào. Trông nó như một cây cột đá khổng lồ nhô lên giữa những cơn sóng, một kiểu kiến trúc ziggurat bao quanh bởi một lối đi xoắn ốc, những cầu thang zig zag và mái hiên. Những sân thượng bao phủ bởi màu xanh từ các khu vườn và lùm cây, và màu xanh được tô điểm bằng những ngọn tháp trắng chọc trời dính vào những hòn đá như tổ nhạn, và bởi các mái vòm trang trí xung quanh những tòa nhà. Những tòa nhà không có vẻ như được xây nên, mà như thể được tạc ra từ đá trên sườn ngọn núi đứng giữa biển cả.
“Tất cả những thứ này đều được xây bởi người elves,” Fabio giải thích. “Bằng phép thuật của elves, người ta nói vậy. Nhưng từ khi chúng ta bắt đầu biết nhớ, Thanedd vẫn luôn thuộc về các pháp sư. Cạnh mỏm đá, gần những mái vòm sáng lóa đó, là cung điện Garstang. Vài ngày nữa, một đại hội pháp sư lớn sẽ được tổ chức ở đó. Và nhìn kia, ở tít trên đỉnh, ngọn tháp cao vót, đơn độc với đồn canh – đó là Tor Lara, Tháp Hải Âu.....”
“Có thể đến chỗ đó từ đất liền được không? Nó khá gần.”
“Có thể. Có một cây cầu nối liền hòn đảo và đất liền. Đứng ở đây không nhìn được bởi vì nó khuất sau những rặng cây. Cậu có nhìn thấy cái mái nhà màu đỏ dưới chân núi không? Đó là cung điện Loxia. Cây cầu dẫn đến đó. Chỉ có đi qua Loxia cậu mới đến được con đường dẫn lên tầng trên....”
“Và cái gì nằm ở chỗ đầy những lùm cây tuyệt đẹp và hồ nước kia? Và những khu vườn? Tôi không biết tại sao nó lại không rơi khỏi mỏm đá.....Cung điện này tên là gì?”
“Đây là Aretuza, nơi mà cậu vừa mới hỏi đó. Đó là ngôi trường phép thuật nổi tiếng.”
“Ah.” Ciri liếm môi. “Vậy ra đó là nơi....Fabio?”
“Cái gì?”
“Cậu có thường xuyên nhìn thấy học viên của ngôi trường này không? Cái trường Aretuza này?”
Cậu trai há mồm, rõ ràng là ngạc nhiên.
“Không bao giờ! Không có ai nhìn thấy họ bao giờ! Họ không được phép rời khỏi hòn đảo và vào thành phố. Và không ai ở bên ngoài được phép đặt chân vào khuôn viên của trường. Kể cả bá tước hay đại diện của đức vua, một khi muốn thứ gì từ các nữ pháp sư, cũng chỉ được phép đi đến Loxia. Ở tầng thấp nhất.”
“Đúng như mình nghĩ,” Ciri gật gù, ngắm nhìn những mái nhà sáng chói của Aretuza. “Đây không phải một ngôi trường mà là nhà tù. Trên một hòn đảo, trên một tảng đá, nằm trên địa ngục. Không gì hơn là một nhà tù.”
“Có lẽ là hơi chút,” Fabio thừa nhận. “Chắc hẳn phải rất khó khăn để thoát ra khỏi đó ....Nhưng không, nó không giống như ở tù. Sau cùng thì các học viên cũng chỉ là những thiếu nữ trẻ. Họ cần phải được bảo vệ....”
“Khỏi cái gì?”
“Thì....”, cậu bé ấp úng. “Cậu biết mà....”
“Không, tôi không biết.”
“Hmm....tôi nghĩ là....Ôi, Ciri, họ đâu có bị bắt nhốt vào đó đâu. Họ tự muốn thế mà....”
“Ờ, phải,” Ciri cười ranh mãnh. “Họ muốn thế, vậy nên giờ đây họ bị kẹt trong cái nhà tù này. Nếu không phải, thì họ đã không bao giờ để mình bị nhốt. Không khó đâu, mấu chốt là phải chạy trốn thật sớm kìa. Trước khi họ đến đó, bởi vì sau này sẽ có thể khó khăn hơn....”
“Cậu có ý gì vậy? Chạy trốn? Chạy đi đâu....?”
“Những linh hồn tội nghiệp đó,” cô bé cắt lời, “chắc chẳng còn chỗ nào để mà chạy. Fabio? Cái thành phố....Hirundrum nằm ở đâu?”
Cậu bé nhìn cô với vẻ khó hiểu.
“Hirundrum không phải là một thành phố,” cậu sửa lại. “Nó là một trang trại khổng lồ. Có những vườn cây cung cấp rau và hoa quả cho mọi thị trấn trong vùng. Cũng có rất nhiều hồ nuôi chép và những loại cá khác....”
“Hirundrum cách bao xa? Nó ở phía nào? Chỉ cho tôi đi.”
“Tại sao cậu lại muốn biết?”
“Tôi bảo cậu chỉ cho tôi đi.”
“Thấy con đường dẫn về phía tây kia không? Mà các đoàn xe đang di chuyển trên nó đó? Đấy là đường đến Hirundrum. Khoảng 15 dặm, qua khu rừng.”
“15 dặm,” Ciri lặp lại. “Cũng không xa lắm đối với một con ngựa tốt....Cảm ơn cậu, Fabio.”
“Vì cái gì?”
“Đừng bận tâm. Nào giờ thì dẫn tôi ra chợ đi. Cậu đã hứa mà.”
“Vậy thì đi thôi.”
Ciri chưa bao giờ được nhìn thấy sự náo nức và nhộn nhịp nào như quảng trường của Gors Velen. Khu hàng cá mà họ vừa đi qua có vẻ im lặng như một ngôi đền so với bây giờ. Quảng trường rất lớn và đông đến mức họ cảm tưởng mình chỉ có thể đứng nhìn từ xa, bởi vì để tiến lại gần nó cần đến cả một phép màu. Tuy nhiên, Fabio vẫn luồn lách được qua đám đông hỗn loạn, kéo Ciri theo sau.
Các chủ gian hàng la ó, khách hàng la thậm chí còn to hơn, trẻ con lạc trong đám đông khóc lóc và gào thét. Gia súc rống khắp nơi, cừu kêu be be, vịt quạc quạc và chạy tứ tung. Các thợ rèn người lùn đập từng nhát búa mạnh mẽ lên những tấm kim loại, thỉnh thoảng nghỉ giữa chừng để uống và chửi rủa. Tiếng kèn túi và dã cầm có thể nghe được từ nhiều hướng. Thêm vào đó, có người lẫn trong đám đông liên tục thổi oang oang một cây zurna. Đó chắc chắn không phải một nhạc sĩ chuyên nghiệp.
Ciri tránh một con lợn đang kêu eng éc và ngã vào một chuồng gà. Ai đó xô đẩy làm cô bé giẫm phải một thứ gì đó mềm và đang meo meo. Cô nhảy đi, gần như bước vào giữa móng guốc của một con vật to lớn, hôi hám và kinh khủng.
“Cái gì thế?” Cô bé rên rỉ, cố đứng thăng bằng. “Fabio?”
“Một con lạc đà. Đừng sợ.”
“Tôi không sợ!”
Ciri tò mò quan sát xung quanh. Cô bé nhìn người halfling, đang bận bịu khắc những tấm da dê trang trí. Cô bé trầm trồ trước những con búp bê xinh đẹp được bày bán bởi một cặp nửa-elves. Cô bé nhìn chằm chằm những tạo tác làm từ đá khổng tước và thạch anh, được mời chào bởi một gnome trông có vẻ lầm lỳ và u ám. Cô bé săm soi một cách sành sỏi những thanh kiếm ở hàng thợ rèn. Sau đó, cô bé quan sát một lúc mấy cái giỏ mây và đi đến kết luận rằng không có gì trên thế giới tồi tệ hơn là phải làm việc.
Người thổi kèn zurna ngừng lại. Có ai đó hẳn đã giết anh ta.
“Cái mùi tuyệt vời này là gì vậy?”
“Bánh rán,” Fabio túm lấy túi tiền. “Cậu có muốn thử một cái không?”
“Tôi muốn thử hai cái.”
Người bán hàng đưa ba cái bánh rán, cầm lấy một đồng năm và trả lại bốn xu, một đồng bị gãy mất nửa. Ciri nhìn đồng xu bị gãy, tham lam ngấu nghiến chiếc bánh rán đầu tiên trong đời.
“Có phải,” cô bé hỏi, trong khi với tay lấy chiếc tiếp theo, “đây là nơi mà câu nói “chỉ đáng giá nửa xu” xuất phát không?”
“Đúng vậy,” Fabio cắn chiếc bánh của mình. “Cậu không có nửa đồng xu nào ở nhà sao?”
“Không,” Ciri liếm các đầu ngón tay. “Ở nhà chúng tôi dùng những đồng vàng. Vả lại, bẻ đôi mấy đồng xu là hoàn toàn ngu ngốc và vô nghĩa.”
“Tại sao?”
“Bởi vì tôi muốn ăn thêm cái nữa.”
Món đường rắc trên chiếc bánh rán hiệu nghiệm bất ngờ. Ciri cảm thấy phấn khích và khu quảng trường nhộn nhịp không còn làm cô bé sợ nữa mà bắt đầu trở nên thú vị. Cô không còn theo sau Fabio nữa, giờ thì cô mới là người kéo cậu đi giữa đám đông nhốn nháo, đến nơi mà một người đang đứng thuyết giáo từ trên một cái bục tự chế được đỡ bởi vài cái thùng. Người phát ngôn rất béo, và già. Dựa theo cái đầu cạo trọc lốc và tấm áo choàng xám Ciri đoán ông ta chắc hẳn là một thầy tu. Cô đã từng nhìn thấy vài người bọn họ khi còn ở Đền thờ Melitele ở Ellander. Mẹ Nenneke luôn gọi họ là “những kẻ cuồng tín tâm thần.”
“Chỉ có một luật lệ duy nhất trên thế giới này mà thôi,” thầy tu béo la ó. “Luật của thần linh! Tất cả vạn vật đều phải tuân theo nó, toàn bộ trái đất và những gì đang sống trên đó! Nhưng phép thuật và thần chú đang làm ô uế điều luật này! Và vì thế nên lũ pháp sư đều bị nguyền rủa và ngày báo thù đã gần kề rồi, ngày mà lửa thiêng từ trời cao sẽ thiêu rụi hòn đảo ma quỷ của chúng! Những bức tường của Loxia, Aretuza và Garstang sẽ sụp đổ, những bức tường mà những kẻ ngoại đạo này đang tụ tập để bày mưu tính kế. Những bức tường sẽ sụp đổ...”
“Và rồi tôi lại phải đi xây lại cái thứ quỷ quái đó,” một người thợ hồ khoác một chiếc áo dính đầy vôi đang đứng bên cạnh Ciri la lên.
“Ta đang cảnh báo mọi người đây, hỡi những con người ngoan đạo!” Thầy tu hét lên. “Đừng tin lũ pháp sư, đừng nhờ cậy đến chúng! Đừng để chúng đánh lừa mọi người bằng sắc đẹp và ngôn từ cao sang, bởi vì hãy biết rằng pháp sư cũng như những ngôi mộ được rửa trôi, sạch sẽ bên ngoài, bẩn thỉu bên trong!”
“Nhìn ông ta mà xem,” một thiếu nữ trẻ vác một chiếc giỏ đầy cà rốt lên tiếng. “Hãy nghe những từ ngữ đao to búa lớn kia mà xem....ông đang xỉa xói các pháp sư chỉ vì lòng ganh ghét mà thôi!”
“Chứ còn gì nữa,” người thợ hồ tán thành. “Đầu trọc lốc như quả trứng, râu ria quấn cả vào đầu gối. Và các pháp sư không bao giờ bị béo phì hay trọc đầu....Và các nữ pháp sư, he, sắc đẹp đó....”
“Vì nhan sắc đó chúng đã bán linh hồn cho quỷ dữ!” một người đàn ông thấp bé giắt một cây búa trên thắt lưng la lên.
“Ông là đồ ngốc, thợ đóng giày à. Nếu không phải vì những quý cô tốt bụng ở Aretuza, thì ông đã sạt nghiệp từ lâu rồi! Tiền của họ trả cho nồi súp ông ăn mỗi tối đó!”
Fabio kéo tay áo Ciri và họ quay trở lại đám đông đang di chuyển ra trung tâm quảng trường. Họ có thể nghe tiếng trống đánh và một tiếng kêu yêu cầu im lặng. Đám đông không có vẻ gì là muốn nghe theo nhưng người phát ngôn của thành phố cũng chẳng để ý lắm. Anh ta có chất giọng âm vang và rất biết cách sử dụng chúng.
“Hãy để tất cả mọi người cùng biết,” anh ta la lên, gỡ một cuộn giấy da ra. “Rằng Hugo Ansbach, một halfling, đã trở thành kẻ ngoài vòng pháp luật, bởi vì hắn đã chứa chấp những phần tử cực đoan người elves được biết đến với cái tên Sóc. Tương tự đối với Justin Ingvar, một thợ rèn người lùn, đã chế tạo tên cho những kẻ vô lại này. Do đó, bá tước đã ra lệnh bắt giữ cả hai. Ai bắt được chúng sẽ được thưởng: 50 crown tiền mặt. Và bất cứ ai chứa chấp chúng sẽ bị coi là đồng phạm và bị xử tội tương đương như những tên tội phạm này. Và nếu chúng bị phát hiện ở một cánh đồng hay ngôi làng nào đó, thì cả nông trại và ngôi làng sẽ phải chịu trách nhiệm.....”
“Ai mà lại,” một trong những người đứng nghe lên tiếng, “chứa chấp một tên halfling kia chứ? Cứ lục tung những nông trại của đồng loại chúng là khắc tìm được ngay, sau đó tống hết lũ không-phải-người cặn bã xuống hố bọ cạp!”
“Lên giá treo cổ luôn đi, không cần xuống hố làm gì!”
Phát ngôn viên của thành phố tiếp tục đọc các thông báo của bá tước và hội đồng thành phố, nhưng Ciri không còn thấy hứng thú nữa. Cô bé đang định rời khỏi đám đông thì bỗng cảm thấy một bàn tay sờ mông mình. Không thể nào là vô ý được, nó hoàn toàn có chủ đích và rất khéo léo. Khoảng không gian chật hẹp khiến cho việc xoay người là bất khả thi, nhưng Ciri đã học được ở Kaer Morhen cách di chuyển ở những nơi như vậy. Cô bé xoay tròn, tạo ra một chút hỗn loạn khi làm vậy. Gã thầy tu trọc đứng đằng sau cô mỉm cười kiêu ngạo. Nụ cười như muốn nói – nhóc con sẽ làm gì đây? Đỏ mặt một cách đáng yêu và thế thôi, nhỉ?
Gã thầy tu rõ ràng là chưa bao giờ phải đối đầu với học trò của Yennefer.
“Giữ yên bàn tay bên cạnh mình đi, đồ trọc lốc!” Ciri rít lên giận dữ. “Tự đi mà sờ mông mình ý, cái đồ......mộ rửa trôi!”
Lợi dụng việc gã thầy tu không thể di chuyển vì bị mắc kẹt trong đám đông, cô bé cố đá hắn ta một cái, nhưng Fabio đã ngăn cô lại, nhanh chóng kéo cô ra xa. Nhìn thấy cô bé run rẩy vì tức giận, cậu làm cô bình tĩnh lại bằng bánh phễu rắc đường, mà chỉ cần nhìn thấy thôi là đã làm tâm trí Ciri quên mất sự cố vừa rồi. Họ dừng lại cạnh một quầy hàng mà từ đó có tầm nhìn rất tốt về phía giá treo cổ và chiếc gông. Tuy nhiên, chiếc gông đang không cùm tên tội phạm nào cả còn giá treo cổ thì được trang trí bởi nhiều vòng hoa và đang được sử dụng bởi một nhóm nhạc sĩ du mục, ngồi kéo vĩ cầm và thổi kèn túi. Một cô gái trẻ, tóc đen mặc một cái áo chẽn bằng da đang nhảy múa và ca hát, tay đập trống và chân nhún nhảy trong chiếc ủng da bé xíu.
Một nữ pháp sư bị cắn bởi một con rắn độc và lạnh,
Vừa ngắm nhìn nó mắc nghẹn và chết vừa cười!
Đám đông đứng quanh giá treo cổ hò hét và vỗ tay theo nhịp. Người bán bánh phễu bỏ một mẻ mới vào chảo rán. Fabio liếm láp ngón tay và kéo áo Ciri đi.
Có rất nhiều quầy hàng chào mời đủ mọi loại đồ ăn. Họ ăn mỗi người một cái bánh kem, và sau đó cùng ăn một con lươn hun khói, thêm một vài thứ khá kỳ lạ nữa, được rán và xiên trên que. Sau đó, họ dừng lại ở hàng xúc xích và giả vờ muốn mua để được ăn thử. Sau khi cả hai đã nhét đầy xúc xích vào bụng và bỏ đi mà không mua gì, người lái buôn kêu ầm lên, gọi họ là mấy đứa ranh con mất nết.
Họ đi lên phía trước. Fabio dùng nốt số tiền còn lại để mua một giỏ lê. Ciri ngước nhìn lên mặt trời nhưng quyết định rằng vẫn chưa đến giữa trưa.
“Fabio? Có gì ở trong mấy túp lều dưới chân tường thành kia?”
“Nhiều thứ lắm. Cậu có muốn đi xem không?”
“Có.”
Những người đứng trước túp lều đầu tiên đều là đàn ông, nhún nhảy qua lại vì phấn khích. Có tiếng sáo vọng ra từ bên trong.
“Leila ngăm đen,” Ciri giải mã tấm biển trưng bên cạnh. “Tiết lộ mọi bí mật trên cơ thể cô trong điệu nhảy....Ngớ ngẩn thật! Bí mật gì chứ....”
“Đi nào, đi nào,” Fabio giục, mặt đỏ ửng. “Ôi, nhìn này, cái này rất thú vị đây. Một quầy xem bói. Tôi vẫn còn lại hai xu, chắc là đủ...”
“Thật là phí tiền,” Ciri hậm hực. “Một lời tiên đoán hai xu! Cần phải là một nhà tiên tri thực sự mới biết được tương lai. Tiên tri là một tài năng xuất chúng. Kể cả trong giới pháp sư thì cũng phải cả trăm người mới có một người sở hữu khả năng này.”
“Người chị cả của tôi,” cậu bé phản đối, “đã được báo là sẽ cưới chồng và đúng là chị ấy cưới thật. Đừng nhỏ mọn thế, Ciri. Hãy vào trong đi....”
“Tôi không muốn kết hôn! Tôi không muốn tiên tri gì hết! Trời thì nóng và cái lều này sặc mùi hương trầm, tôi không vào đâu. Nếu muốn thì cậu cứ vào một mình, tôi sẽ đợi. Tôi không hiểu tại sao cậu lại muốn nghe một lời tiên tri đến vậy. Cậu muốn biết cái gì nào?”
“Thì....” Fabio ấp úng. “Điều tôi muốn biết nhất là....liệu tôi có trở thành một nhà thám hiểm không. Tôi muốn được làm một nhà thám hiểm trong tương lai. Được đi khắp thế gian...”
Cậu ấy sẽ, Ciri bất chợt nhận ra, cảm thấy đầu óc quay cuồng. Cậu ấy sẽ đi trên những con tàu trắng vĩ đại....Cậu ấy sẽ đến những vùng đất chưa ai từng đặt chân tới....Fabio Sachs, nhà thám hiểm vĩ đại....Một mũi đất sẽ được đặt tên theo cậu ấy, một mũi đất của một lục địa vẫn chưa được biết đến. Vào lúc 54 tuổi cậu ấy sẽ có một người vợ, một con trai và ba con gái, nhưng cậu ấy sẽ chết xa nhà và gia đình....bởi một căn bệnh vẫn chưa có tên.
“Ciri! Cậu sao thế?”
Cô bé lấy tay xoa mặt. Cảm giác như thể vừa mới trồi lên từ một cái hồ, bơi về phía mặt nước từ dưới đáy hồ sâu thẳm, lạnh như băng.
“Không có gì....” cô lầm bầm, nhìn ngó xung quanh. “Tôi thấy hơi chóng mặt...Chắc là do cái nóng. Và mùi hương trầm....”
“Tôi nghĩ là do mấy cái xúc xích đó,” Fabio nói với vẻ nghiêm túc. “Đáng lẽ chúng ta không nên ăn nhiều như vậy. Bụng tôi cũng hơi kỳ lạ.”
“Tôi ổn mà!” Ciri dũng cảm ngẩng đầu lên, quả thực là cảm thấy khá hơn nhiều. Cảm giác vừa rồi đã biến mất, bị xóa khỏi trí nhớ của cô bé. “Đi nào, Fabio. Hãy lên phía trước đi.”
“Muốn một quả lê nữa không?”
“Chắc rồi!”
Dưới chân tường thành, một nhóm các bạn trẻ đang chơi quay ăn tiền. Con quay được kéo bởi một sợi dây xoay xung quanh vòng tròn vẽ bằng phấn. Ciri đã đánh bại gần hết tụi con trai ở Skellige và tất cả các cô gái ở Đền thờ Melitele. Cô bé đang cân nhắc có nên tham gia trò chơi và lấy hết của bọn họ không chỉ tiền, mà còn cả quần áo nữa thì bỗng những tiếng la ó vang dội đã thu hút sự chú ý của cô.
Ở tận cuối hàng lều trại, nằm chen chúc giữa bức tường và các bậc thang đá, là một công trình kỳ lạ, nửa tròn, được dựng bởi một tấm vải bạt trùm lên những cây cọc làm bằng đồng. Giữa hai cây cọc là một lối vào, được canh gác bởi một người đàn ông cao lớn, mặt rỗ, mặc áo giáp và quần sọc dưa. Phía trước ông ta là một đám đông. Mọi người đứng thành hàng và bỏ một nắm xu vào tay ông ta rồi biến mất dưới tấm vải bạt. Người đàn ông mặt rỗ bỏ tiền vào trong một cái hộp sắt, vừa lắc nó vừa hô.
“Lại đây nào, mọi người! Lại đây! Hãy nhìn tận mắt con quái vật kinh khủng nhất mà các vị thần đã tạo ra! Sốc và kinh hoàng! Một con basilisk còn sống, nỗi ám ảnh của sa mạc Zerrikania, quỷ dữ tái sinh, luôn thèm thịt người! Mọi người chưa bao giờ được nhìn thấy một thứ như này đâu! Mới bắt được từ Biển Corrabian! Nhìn nó đi, hãy nhìn con basilisk bằng chính mắt mình, bởi vì mọi người sẽ không thể nhìn thấy ở bất kỳ nơi nào khác! Đây là cơ hội có một không hai! Ngay tại đây, trong lều của tôi, chỉ với ba đồng năm! Hai đồng cho phụ nữ với trẻ em!”
“Ha!” Ciri kêu lên, xua đi mấy con ong đang vo ve xung quanh mấy quả lê, “Một con basilisk? Còn sống nữa? Tôi phải xem mới được. Từ trước đến giờ tôi mới chỉ được nhìn thấy chúng trong tranh ảnh. Đi nào, Fabio!”
“Tôi không còn tiền nữa.....”
“Nhưng tôi thì còn. Tôi sẽ bao cả hai chúng ta. Nhanh lên nào.”
“Tổng cộng là sáu đồng,” người đàn ông mặt rỗ nhìn những đồng xu trên tay mình. “Mỗi người ba đồng. Giá thấp hơn chỉ dành cho phụ nữ với trẻ em thôi.”
“Cậu ta,” Ciri chỉ về phía Fabio, “là trẻ em. Còn tôi là phụ nữ.”
“Giá thấp hơn chỉ dành cho phụ nữ đang bế con trên tay.” Người đàn ông làu bàu. “Thêm vào hai đồng nữa đi, nhóc con khôn lỏi, hoặc là đứng tránh ra cho người khác. Nhanh lên nào mọi người. Chỉ còn ba vé nữa thôi!”
Bên dưới tấm bạt, khách tham quan đứng tụ tập xung quanh một cái bục mà trên đó đặt một cái lồng gỗ, được che bởi một tấm thảm. Khi căn lều đã đông đủ, người đàn ông mặt rỗ đứng lên bục, cầm lấy một cây gậy dài và gỡ tấm thảm ra. Mùi xác thối nồng nặc tỏa ra xung quanh. Đám đông xôn xao và lùi lại.
“Khôn ngoan đấy, mọi người.” Người đàn ông bình luận. “Đứng gần quá không an toàn đâu!”
Bên trong cái lồng, rõ ràng là quá bé, một sinh vật bò sát đang nằm đó, da được bao phủ bởi những chiếc vảy tạo nên một hoa văn kỳ lạ. Khi người đàn ông mặt rỗ chọc cái lồng, con thú tỉnh dậy, vươn cái cổ ra và rít lên giận dữ, nhe ra hàm răng trắng, nhọn hoắt. Đám đông trầm trồ. Một con cún nhỏ bé, lông xù kêu lên từ trên tay một người phụ nữ, nhìn có vẻ giống một lái buôn.
“Hãy quan sát kỹ lưỡng đi,” người đàn ông mặt rỗ la lên. “Và hãy mừng rằng tạo vật ghê tởm như này không sống gần chúng ta! Đây là một con basilisk đến từ Zerrikania! Đừng lại gần quá, bởi vì kể cả khi bị nhốt vào lồng, nó vẫn có thể giết người bằng hơi thở!”
Ciri và Fabio chen lên phía trước.
“Con basilisk,” người đàn ông đứng trên bục tiếp tục, “là sinh vật độc hại nhất trên thế giới! Bởi vì basilisk là vua của loài bò sát! Nếu có nhiều hơn những con như này, thế giới sẽ tiêu tùng! May mắn thay là chúng rất hiếm, bởi vì chúng chỉ có thể được sinh ra từ trứng do một con gà trống đẻ. Và như mọi người đều biết, gà trống không đẻ trứng được nhưng một thằng hâm nào đó chìa mông ra cho người khác như một con gà mái thì có thể.”
Đám đông cười ồ lên. Người duy nhất không cười là Ciri, nhìn chằm chằm con vật đang cào cấu những thanh gỗ vì khó chịu do tiếng ồn, cố xòe đôi cánh rách nát ra trong vô vọng.
“Trứng đẻ bởi con gà trống này,” người đàn ông mặt rỗ tiếp tục, “phải được ấp bởi 101 con rắn độc! Và khi con basilisk nở ra...”
“Đây đâu phải một con basilisk,” Ciri lên tiếng, cắn một miếng lê. Người đàn ông mặt rỗ lườm cô bé.
“Và khi con basilisk nở,” ông ta lặp lại, “nó sẽ ăn thịt hết toàn bộ số rắn trong tổ, hấp thụ hết độc tố của chúng. Nó hấp thụ nhiều đến mức có thể giết con mồi không chỉ bởi một vết cắn hay một cái chạm của vảy, mà còn bằng cả hơi thở. Và nếu một hiệp sĩ đâm nó bằng giáo, nọc độc sẽ truyền ra tay anh ta, giết chết cả người lẫn ngựa!”
“Chả đúng tí nào.” Ciri nói, nhổ ra một cái hạt.
“Đó là sự thật thật nhất!” Người đàn ông phản đối. “Nó sẽ giết chết người kỵ sĩ và con ngựa!”
“Còn lâu!”
“Im đi, nhóc con.” người lái buôn ôm con cún mắng. “Đừng có xen ngang! Chúng ta muốn nghe thêm!”
“Bỏ đi, Ciri.” Fabio khuyên nhủ cô bé, khẽ lấy cùi chỏ huých vào người cô. Ciri rít lên với cậu, với lấy một quả lê nữa.
“Tất cả mọi sinh vật sống,” người đàn ông mặt rỗ cao giọng, “đều chạy mất ngay khi nhìn thấy con basilisk, khi nghe thấy tiếng rít của nó. Mọi sinh vật sống, kể cả rồng, kể cả cá sấu, mà cá sấu đã là một sinh vật rất khủng khiếp rồi đó, ai nhìn thấy rồi thì khắc biết. Chỉ có duy nhất một con vật không sợ basilisk và đó là chồn sa mạc. Chồn sa mạc ngay khi nhìn thấy basilisk sẽ nhanh chóng chạy vào rừng và tìm ăn một loại cây mà chỉ nó mới biết. Sau đó độc của con basilisk sẽ không còn tác dụng nữa và con chồn sẽ cắn con quái vật cho đến chết...”
Ciri lớn tiếng cười chế nhạo.
“Này, đồ khôn lỏi!” người đàn ông mặt rỗ mất kiên nhẫn. “Nếu không muốn nghe thì biến đi! Không cần ở đây làm gì!”
“Nó không phải là một con basilisk.”
“Thế à? Vậy thì nó là con gì, hả quý cô biết tuốt?”
“Một con wyvern.” Ciri đáp lại, liếm láp ngón tay. “Một con wyvern đơn giản. Nhỏ, đói và bẩn thỉu. Nhưng vẫn chỉ là một con wyvern.”
“Ôi, nhìn kìa!” người đàn ông la lên. “Một chuyên gia! Tốt hơn là ngậm mồm vào đi bằng không....”
“Đủ rồi!” một thanh niên với mái tóc đẹp đội một chiếc mũ bêrê và mặc trang phục hộ vệ, đang đỡ một quý bà mảnh mai trong chiếc váy tím lên tiếng. “Hãy lịch sự, thưa ngài thợ săn quái vật. Đừng đe dọa một quý cô bằng không tôi sẽ buộc phải phạt ngài bằng thanh kiếm này đấy. Và toàn bộ vụ này nghe có vẻ như một trò lừa đối với tôi!”
“Lừa cái gì, thưa ngài hiệp sĩ đáng kính?” người đàn ông mặt rỗ nhảy dựng lên. “Con nhãi....ý tôi là, quý cô đây đã sai rồi. Đây chắc chắn là một con basilisk!”
“Nó là một con wyvern.” Ciri lặp lại.
“Đây không phải một con wyvern! Nó là một con basilisk! Hãy nhìn xem nó hung dữ ra sao, cách nó rít, cắn xé thanh gỗ! Hãy xem răng nanh của nó lớn thế nào. Những chiếc nanh giống như....”
“Của một con wyvern.” Ciri làm mặt giễu cợt.
“Nếu cô hiểu biết như thế,” người đàn ông lườm cô bé như thể một con basilisk thật sự, “thì hãy đến gần hơn đi! Lại đây và để nó thở vào người cô! Làm đi và rồi mọi người sẽ được thấy cô nằm chết thẳng cẳng! Lại đây!”
“Rất hân hạnh.” Ciri giằng tay ra khỏi Fabio và bước lên phía trước.
“Tôi không cho phép!” người cận vệ tóc đẹp lên tiếng, bỏ lại người đồng hành mặc váy tím và bước ra chắn đường Ciri. “Tôi không thể để cô gặp nguy hiểm, thưa quý cô!”
Ciri hơi đỏ mặt khi được gọi như vậy, nhìn người cận vệ và chớp chớp mi mắt như cách mà cô đã chớp với Jarre.
“Không có nguy hiểm nào đâu, thưa ngài hiệp sĩ hào hoa.” Cô bé cười quyến rũ, quên mất lời cảnh báo của Yennefer và câu truyện của cô về thằng ngốc và khối pho mát. “Sẽ không có chuyện gì xảy ra với tôi đâu. Cái vụ hơi thở độc kia chỉ là ba láp mà thôi.”
“Kể cả như vậy,” người thanh niên đặt tay lên cán kiếm, “tôi vẫn muốn được đi cùng cô. Vì sự an toàn của cô....quý cô cho phép chứ?”
“Tôi cho phép.” Ciri không thể hiểu tại sao sự giận dữ trên khuôn mặt quý bà mặc váy tím lại làm cô bé vui đến vậy.
“Tôi là người phải trông nom cho cô ấy!” Fabio ném một ánh mắt thách thức về phía người cận vệ. “Và tôi cũng sẽ đi cùng cô ấy!”
“Các chàng trai,” Ciri như phồng lên vì kiêu hãnh, “Hãy cư xử đàng hoàng nào. Đừng tranh cãi. Có đủ chỗ cho cả hai người mà.”
Đám đông xung quanh xì xào khi cô bé lại gần cái chuồng, gần như cảm nhận được hơi thở của hai chàng trai đằng sau lưng cô. Con wyvern rít lên giận dữ và xoay qua xoay lại, cái mùi bốc lên từ nó làm cháy mũi họ. Fabio kêu lên nhưng Ciri không lùi lại. Cô bé tiến lại gần hơn và giơ tay về phía cái lồng, gần như chạm vào nó. Con quái vật lao mình về phía những thanh gỗ, cào cấu chúng bằng móng vuốt. Đám đông xôn xao, ai đó hét lên.
“Sao?” Ciri vểnh mũi, quay người lại. “Tôi đã chết chưa? Tôi đã bị đầu độc vì con vật này chưa? Nếu đây là một con basilisk thì tôi là....”
Cô bé ngừng lại, nhìn thấy gương mặt những người đồng hành đang biến sắc. Cô ngay lập tức xoay người và nhìn những thanh gỗ bị uốn cong dưới cơn giận của con thú điên loạn.
“Mọi người chạy mau!” Cô bé hét lên. “Cái lồng đang sập!”
Những khách tham quan la hét chạy về phía lối thoát. Một số cố luồn ra bên dưới tấm bạt nhưng chỉ làm bản thân và những người khác bị quấn vào đó. Người cận vệ túm lấy tay Ciri ngay lúc cô bé chuẩn bị nhảy đi, kết quả là làm cả hai đều trượt chân và ngã nhào, kéo theo cả Fabio. Con cún lông xù của người lái buôn sủa vang, người đàn ông mặt rỗ chửi rủa và quý bà mặc váy tím hét điếc cả tai.
Những thanh gỗ gãy cái rắc và con wyvern xổng ra. Người đàn ông mặt rỗ nhảy khỏi cái bục và cố ngăn nó lại bằng một cái que. Nhưng con quái vật đánh bay món vũ khí và quật cái đuôi đầy gai vào mặt ông ta, làm máu me be bét khắp trên khuôn mặt rỗ. Rú rít và xòe ra cặp cánh rách nát, con wyvern bay khỏi cái bục và nhảy xổ vào Ciri, Fabio và người cận vệ, lúc này đang cố đứng dậy. Quý bà mặc váy tím ngất xỉu. Ciri cân nhắc việc nhảy đi nhưng nhận ra rằng cô bé không có thời gian.
Họ được cứu bởi con cún lông xù, đã trốn thoát khỏi tay người lái buôn lúc này đang bị quấn vào tấm bạt cùng chiếc váy của bà ta. Sủa điên dại, con chó nhảy vào con quái vật. Con wyvern rít lên, cong người, túm được con chó bằng những chiếc vuốt và cắm ngập răng nanh vào cổ nó. Con cún kêu oăng oẳng.
Người cận vệ đứng dậy và sờ sang bên, nhưng không tìm được thanh kiếm vì Ciri đã nhanh tay hơn. Cô bé rút nó ra bằng một động tác chớp nhoáng và xoay mình nhảy một vòng. Con wyvern nhổm dậy, cái đầu đứt lìa của con chó đung đưa trên hàm răng của nó.
Ciri cảm thấy như thể mọi động tác mà cô bé đã tập luyện ở Kaer Morhen cứ tự thực hiện mà không cần đến mình. Cô bé chém một nhát vào bụng con wyvern đang bị bất ngờ và né ra khi con quái vật vồ lên phía trước. Con thú ngã xuống cát, chảy máu trầm trọng. Ciri nhảy qua nó, tránh một cách điệu nghệ cái đuôi, cắt một phát chính xác vào cổ con quái vật từ dưới lên, thực hiện động tác né không cần thiết do thói quen, và tặng thêm một nhát cho đối phương, lần này bẻ gãy xương sống nó. Con wyvern co mình lại và nằm bất động, ngoại trừ cái đuôi, vẫn còn đang giãy dụa, làm cát ở xung quanh bay lên mù mịt.
Ciri nhanh chóng nhét thanh sắt đẫm máu vào tay người cận vệ.
“Tất cả mọi thứ ổn rồi!” cô bé la lên với đám đông. “Con quái vật đã chết! Chiến binh dũng cảm này đã giết nó!”
Đột nhiên, cô bé cảm thấy cổ họng và bụng thắt lại, tầm nhìn mờ đi. Có gì đó đã đập cô bé một cú đau điếng vào mông. Cô nhìn xung quanh và nhận ra rằng cái thứ đó chính là mặt đất.
“Ciri....” Fabio thì thầm, quỳ bên cạnh cô. “Chuyện gì thế? Thần linh ơi, cậu trắng bệch như ma vậy....”
“Thật đáng tiếc,” cô bé lầm bầm, “là cậu không được nhìn thấy.”
Mọi người tụ tập xung quanh họ. Một số chọc chọc xác con wyvern bằng que và cán chổi, vài người chạy lại kiểm tra người đàn ông mặt rỗ, số còn lại tán dương người cận vệ anh hùng, kẻ-diệt-rồng can đảm, người đã ngăn chặn một cuộc thảm sát. Người cận vệ đang cố hồi tỉnh quý bà mặc váy tím, vẫn đang nhìn vào cán thanh kiếm be bét máu với vẻ bối rối.
“Người hùng của em....” quý bà váy tím tỉnh dậy và choàng tay quanh cổ người hiệp sĩ. “Vị cứu tinh yêu dấu của em!”
“Fabio,” Ciri thì thầm, trông thấy cảnh vệ thành phố đang tìm đường xuyên qua đám đông. “Giúp tôi đứng dậy và ra khỏi đây nào. Nhanh!”
“Những đứa trẻ tội nghiệp...” một người phụ nữ mập mạp gật gù khi nhìn thấy họ lẻn đi khỏi sự hỗn loạn. “Các cháu rất may mắn đó. Nếu không phải vì người chiến binh dũng cảm thì mẹ các cháu đã khóc lòi cả mắt ra rồi!”
“Hãy tìm xem người thanh niên phục vụ ai!” một người thợ thủ công mặc áo da lên tiếng, “Anh ta xứng đáng được phong tước hiệp sĩ!”
“Và lôi gã bắt thú ra đây! Hắn xứng đáng bị ăn vụt! Vì đã mang một con vật hung tợn như thế vào thành phố, giữa những người dân...”
“Mang nước lại đây nhanh lên! Quý cô lại ngất xỉu nữa rồi!”
“Công chúa tội nghiệp của tôi!” người lái buôn rên rỉ, cúi xuống những gì còn lại của con chó. “Bé con tội nghiệp của tôi! Mọi người! Hãy bắt con bé đã kích động con rồng lại! Nó đâu rồi? Bắt lấy nó! Không phải lỗi của người bắt thú đâu, mà là của nó!”
Những lính gác, được hỗ trợ bởi vài người tình nguyện, bắt đầu lùng sục trong đám đông. Ciri vượt qua được cơn chóng mặt.
“Fabio,” cô bé thì thầm. “Chúng ta cần phải tách ra. Hãy gặp lại nhau ở con hẻm lúc chúng ta khởi hành. Đi đi. Và nếu có ai bắt cậu lại và hỏi về tôi, cứ giả vờ như không biết.”
“Nhưng...Ciri...”
“Đi đi!”
Cô bé siết lấy tấm mề đay của Yennefer và kích hoạt câu thần chú. Nó hoạt động ngay tức khắc và rất kịp lúc. Những người lính gác, đang đi xuyên qua đám đông về phía cô bé, dừng lại bối rối.
“Cái quỷ gì?” một người kêu lên, nhìn thẳng vào chỗ mà Ciri đang đứng. “Con bé đâu rồi? Tôi vừa mới thấy nó ở quanh đây!”
“Đằng kia! Đằng kia!” một người khác la lên, chỉ về hướng đối diện.
Ciri quay người và bước đi, vẫn còn đang chóng mặt vì sự gia tăng adrenalin do câu thần chú. Tấm bùa hoạt động một cách hoàn hảo – không ai có thể nhìn thấy cô bé. Không một ai. Như hệ quả, trước khi thoát khỏi đám đông, cô đã bị xô đẩy, đá và ngáng đường vô số lần. Cô bé chỉ tránh được một chiếc thùng ném từ trên xe xuống trong gang tấc. Suýt nữa bị đâm bởi một cái chĩa. Thần chú có vẻ như vừa có lợi cũng vừa hại – và có nhiều ưu điểm cũng như khuyết điểm.
Tấm bùa không hoạt động được lâu. Ciri không có sức mạnh để kiểm soát và duy trì nó. May mắn thay, câu thần chú ngừng hoạt động vừa đúng lúc – ngay sau khi cô bé thoát khỏi đám đông và thấy Fabio đang đứng đợi mình.
“Ôi, trời!” cậu trai thở phào. “Ôi trời, Ciri. Cậu đây rồi. Tôi lo quá...”
“Cậu chỉ lo hão. Đi về thôi. Sắp sửa đến giữa trưa rồi, chúng ta phải nhanh lên.”
“Cậu đúng là rất biết cách giải quyết con quái vật đó.” Cậu bé nhìn cô với vẻ tôn trọng. “Cậu di chuyển rất nhanh! Cậu học cách di chuyển như vậy từ đâu?”
“Như nào? Con wyvern đã bị giết bởi người cận vệ.”
“Không đúng. Tôi đã nhìn thấy...”
“Cậu không nhìn thấy gì hết! Fabio, làm ơn, đừng kể chuyện này với ai. Không một ai cả. Và nhất là cô Yennefer. Ôi, cô ấy sẽ chì chiết tôi thậm tệ nếu biết được chuyện này...”
Cô bé im lặng trong một lúc.
“Những người đó,” cô bé hất đầu về phía quảng trường, “đã nói đúng. Tôi là người đã khích động con wyvern...đều là tại tôi...”
“Không phải lỗi của cậu,” Fabio phản đối. “Cái lồng đó được làm rất tệ và đã đang mục rữa rồi. Nó có thể sập bất cứ lúc nào, một giờ sau, ngày mai, ngày kia....Tốt nhất là nó xảy ra như vừa rồi, vì cậu có thể cứu...”
“Người cận vệ đã cứu!” Ciri la lên. “Người cận vệ đã cứu! Hãy để nó ngấm vào cái sọ dày của cậu đi! Tôi thề là nếu cậu hé nửa lời với ai tôi sẽ biến cậu thành thứ gì đó....thứ gì đó kinh khủng! Tôi biết phép thuật đấy! Tôi sẽ hóa phép cậu thành...”
“Này!” một giọng nói vang lên từ sau lưng họ. “Đủ rồi!”
Một trong số hai người phụ nữ đi sau họ có một mái tóc đen, chải chuốt gọn gàng, đôi mắt lấp lánh và môi mỏng. Bà mặc một chiếc áo khoác lụa tím ngắn, với ren bằng lông chuột.
“Tại sao cô lại không ở trường, hả học viên?” Bà hỏi lạnh lùng, lườm Ciri.
“Đợi đã, Tissaia,” người phụ nữ kia lên tiếng, trẻ hơn, cao và mái tóc vàng, mặc một chiếc váy xay lục khoét cổ. “Em không nhận ra con bé. Em không nghĩ con bé là...”
“Nó là đấy,” người tóc đen cắt lời. “Ta chắc chắn nó là một trong số học trò của cô, Rita. Cô không thể nào biết hết chúng được. Chắc hẳn con bé là một trong những đứa đã lẻn ra ngoài qua Loxia trong lúc hỗn loạn khi các học viên đổi phòng. Và giờ thì chúng ta sẽ đợi một lời giải thích xác đáng. Thế nào, học viên?”
“Cái gì?” Ciri nhăn mặt.
Người phụ nữ mím môi và chỉnh lại chiếc lắc tay.
“Cô ăn trộm tấm bùa đó ở đâu hả? Hay là ai đó đã đưa nó cho cô?”
“Cái gì?”
“Đừng thử thách sự kiên nhẫn của ta, học viên. Tên cô là gì, ở lớp nào và ai là giáo viên hướng dẫn. Nói mau!”
“Cái gì?”
“Cô đang giả ngu đấy à, học viên? Tên cô? Tên cô là gì?”
Ciri nghiến răng và đôi mắt bắn ra những tia lửa xanh về phía họ.
“Anna Ingeborga Klopstock.” Cô bé rít lên.
Người phụ nữ giơ cao tay và Ciri ngay lập tức nhận ra cô bé đã mắc phải một sai lầm nghiêm trọng đến mức nào. Yennefer đã minh họa thần chú tê liệt cho cô bé chỉ mới một lần, do đã phát chán mấy lời rên rỉ than vãn. Cảm giác đó không dễ chịu chút nào hết. Giờ cũng vậy.
Fabio rú lên kinh hãi và nhảy về phía cô bé nhưng người phụ nữ còn lại, với mái tóc vàng, đã túm cổ áo cậu và bắt cậu ở yên tại chỗ. Cậu bé vùng vẫy dữ dội nhưng người phụ nữ có một nắm tay thép. Ciri không thể di chuyển. Người tóc đen cúi xuống và lườm cô bé.
“Ta không thích những màn trừng phạt thân thể,” bà lạnh lùng nói, chỉnh lại chiếc lắc tay. “Nhưng ta sẽ đảm bảo là cô được kỷ luật thích đáng, học viên. Không phải vì hành xử thô lỗ, không phải vì trộm cắp hay trốn học. Thậm chí còn không phải vì mặc quần áo hở hang, đi lại cùng với một đứa con trai và nói với nó về những điều mà cô đã cấm không được nói. Không, cô sẽ bị kỷ luật vì đã không nhận ra một Hiệu trưởng.”
“Đừng!” Fabio la lên. “Đừng làm hại cậu ấy, thưa bà! Tôi là nhân viên phục vụ ở ngân hàng của Molnar Giancardi và cậu ấy là....”
“Im đi!” Ciri la lên. “Im...” Câu thần chú bịt mồm được thi triển nhanh chóng và thô bạo. Cô bé có thể nếm thấy vị máu trong miệng.
“Thế nào?” người phụ nữ tóc vàng giục Fabio.
“Nói đi. Quý cô ngạo mạn này là ai?”