[Dịch] Witcher Saga #2: Time Of Contempt - Czas Pogardy

Chương 21 : CHƯƠNG VII.III




***

“Nói tôi nghe đi, cô là ai? Cô tới từ đâu? Tên cô là gì? Tại sao cô lại bị áp tải?”

Ciri cúi đầu. Trong lúc phi ngựa cô bé đã có nhiều thời gian để suy ngẫm và bịa ra một câu truyện. Cô đã bịa khá nhiều. Nhưng thủ lĩnh của băng Rats có vẻ là người sẽ không dễ dàng tin vào ba cái mớ nhảm nhí đó.

“Nhanh lên,” Giselher giục. “Cô đã đi với chúng tôi được vài giờ rồi. Cô đã nghe chúng tôi nói chuyện, nhưng tôi vẫn chưa có cơ hội được nghe giọng của cô. Cô bị câm à?”

Ngọn lửa bắn lên không trung, lấp đầy cái lán bỏ hoang của một người chăn cừu bằng những cơn sóng ánh sáng. Như thể tuân theo lệnh Giselher, ngọn lửa chiếu rọi gương mặt Ciri, khiến mọi người có thể dễ dàng phát hiện ra vẻ thành thật hay dối trá trong lời nói của cô.

Nhưng mình không thể kể thật cho họ nghe, Ciri cảm thấy tuyệt vọng. Họ là cướp, trộm. Nếu biết tại sao đám người Nilfgaard muốn mình, họ có thể sẽ muốn phần thưởng đó. Vả lại, sự thật quá hoang đường. Đến mình còn chẳng tin nổi nữa là.

“Chúng tôi đã cứu cô khỏi ngôi làng,” thủ lĩnh của những tên cướp chậm rãi tiếp tục. “Chúng tôi mang cô tới nơi ẩn náu của mình. Chia cho cô đồ ăn của mình. Cô ngồi đây cạnh đống lửa của chúng tôi. Vậy hãy nói cho tôi cô là ai?”

“Để mặc cô ấy đi.” Mistle đột nhiên thốt lên. “Khi nhìn anh, Giselher, tôi lại nhớ đến bọn Nissir, hay Trappers hay mấy thằng khốn người Nilfgaard đó. Tôi cảm thấy như mình đang ở trong một phòng hỏi cung, bị trói vào một buồng giam trong hầm ngục.”

“Mislte đúng đó,” người tóc vàng khoác áo da cừu nói. Ciri hơi giật mình khi nghe thấy giọng anh ta. “Rõ ràng là cô gái không muốn nói mình là ai và cô ấy có quyền đó. Khi tôi gia nhập với anh, tôi cũng không nói nhiều lắm. Tôi đã không muốn đề cập rằng mình là một trong số mấy thằng khốn người Nilfgaard đó...”

“Đừng có ngu thế, Reef.” Giselher khoát tay. “Với cậu thì khác. Còn cô, Mistle, cô đang phóng đại lên thôi. Chẳng có ai hỏi cung gì ở đây cả. Tôi chỉ muốn nghe xem cô ấy là ai và từ đâu tới. Một khi đã biết tôi sẽ chỉ cho cô ấy đường về nhà, và có thế thôi. Làm sao tôi làm được mà không biết...”

“Anh chẳng biết cái đếch gì cả.” Mistle quay đi. “Ngay cả khi cô ấy có một ngôi nhà, mà tôi cũng nghi ngờ đấy, thì bọn Trappers cũng đã bắt được cô ấy trên đường, vì cô ấy đang đơn độc. Đó là đặc điểm của lũ hèn đó. Nếu bị đuổi đi, cô ấy sẽ không sống nổi ở trên núi. Chó sói sẽ xé xác cô ấy hoặc cô ấy sẽ chết vì đói.”

“Vậy chúng ta làm gì với cô ấy bây giờ?” người vai rộng nói bằng chất giọng trẻ trung, trong khi lấy que cời lửa. “Chúng ta có bỏ mặc cô ấy ở một ngôi làng nào đó không?”

“Ý tưởng hay đấy, Asse.” Mistle mỉa mai. “Anh có biết mấy tay nông dân đó như thế nào không? Họ luôn thiếu người lao động. Họ sẽ bắt cô ấy chăn gia súc, đó là sau khi đã bẻ gãy hai chân để đảm bảo là cô ấy không chạy trốn được. Khi đêm xuống, cô ấy sẽ bị đối xử như một kẻ vô danh, và do vậy là tài sản công cộng. Anh biết là cô ấy sẽ trả tiền cho cái mái nhà trên đầu kiểu gì rồi đó. Và khi mùa xuân tới, cô ấy sẽ chết vì lên cơn sốt sau khi sinh hạ đứa con hoang của ai đó trong chuồng lợn.”

“Nếu chúng ta để lại cho cô ấy con ngựa và thanh kiếm,” Giselher nói từ tốn, vẫn đang nhìn Ciri. “Tôi sẽ không muốn là mấy tay nông dân định bẻ gãy chân cô ấy đâu. Hay có ý định làm một đứa con hoang. Cô đã thấy cô ấy múa như thế nào trong cái nhà trọ với tên Trappers mà cô đã cắt cổ rồi đó. Hắn chỉ chém không khi trong khi cô ấy bình chân như vại...ha, tôi không quan tâm tên cô ấy là gì hay gia đình là ai, nhưng sẽ rất vui lòng nếu biết cô ấy học được mấy trò đó ở đâu...”

“Chiêu trò sẽ không cứu được cô ta,” Spark đột nhiên nói, nãy giờ vẫn đang bận mài kiếm. “Cô ta chỉ biết múa. Để sống sót được, cô ta phải biết giết, mà rõ ràng là cô ta không làm được.”

“Tôi nghĩ là cô ấy làm được.” Kayleigh mỉm cười. “Lúc ở ngôi làng đó cô ấy đã rạch cổ một gã nông dân, máu bắn phải xa đến nửa mét...”

“Và cô ta suýt ngất khi nhìn thấy cảnh đó.” Người elves khịt mũi.

“Bởi vì cô ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ.” Mistle chen vào. “Tôi có thể đoán được cô ấy là ai và cô ấy học được mấy mánh đó từ đâu. Tôi đã từng nhìn thấy những người như cô ấy rồi. Cô ấy là một vũ công hay người làm trò nhào lộn trong một gánh xiếc.”

“Và kể từ khi nào,” Spark lại khịt mũi, “chúng ta bắt đầu quan tâm đến vũ công hay người làm xiếc? Chết tiệt, sắp nửa đêm rồi, tôi thấy buồn ngủ lắm. Dừng cái màn trò chuyện sáo rỗng này đi. Chúng ta phải ngủ và nghỉ ngơi, sáng mai chúng ta sẽ tới Forge. Tay trưởng làng đó đã giao Kayleigh cho lũ Nissir. Cả ngôi làng tối nay sẽ đỏ rực cho mà xem. Còn cô ta? Cô ta có thể lấy con ngựa và thanh kiếm, cô ta đã giành được chúng một cách công bằng. Đưa cho cô ta chút đồ ăn và tiền. Vì đã giúp cứu Kayleigh. Hãy để cô ta đi đâu tùy thích, làm gì tùy thích...”

“Tốt thôi.” Ciri nói, cắn môi và đứng dậy. Sự im lặng bao trùm chỉ trừ tiếng lách tách của lửa. Băng Rats nhìn cô với vẻ tò mò, chờ đợi.

“Tốt thôi.” Cô nhắc lại, ngạc nhiên vì giọng nói của mình quá xa lạ. “Tôi không cần các người, tôi không đòi hỏi điều gì...Và tôi không muốn ở cùng các người! Tôi sẽ đi...”

“Vậy là cô không bị câm.” Giselher nói nghiêm nghị. “Cô có thể nói, và còn chua chát là đằng khác.”

“Nhìn mắt cô ta xem.” Spark độp lại. “Nhìn cô ta ngẩng đầu cao chưa kìa. Một con chim săn mồi đích thực. Diều hâu!”

“Cô muốn đi.” Kayleigh hỏi. “Nhưng cô có biết là đi đâu không?”

“Anh quan tâm làm gì.” Ciri hét lên, đôi mắt rực một ngọn lửa xanh lục. “Tôi có hỏi anh đi đâu không? Tôi không quan tâm! Tôi không cần các người chút nào! Tôi có thể...tôi có thể tự lo liệu! Một mình!”

“Một mình?” Mistle nhắc lại, mỉm cười bí ẩn. Ciri im lặng, đầu cúi thấp. Băng Rats cũng im lặng.

“Giờ đang là buổi đêm.” Cuối cùng Giselher lên tiếng. “Đừng đi vào buổi đêm. Đừng đi một mình, cô gái. Kẻ nào đi một mình, sẽ chết một mình. Ở đó, gần mấy con ngựa, có chăn và chiếu. Hãy lấy một ít. Buổi đêm trên núi rất lạnh. Sao cô nhìn tôi bằng cặp đèn lồng đó? Hãy chuẩn bị giường và ngủ một giấc. Cô cần nghỉ ngơi.”

Sau một phút cân nhắc, Ciri nghe theo. Khi quay lại, cô bé đem theo một cái chăn và chiếu. Băng Rats không còn ngồi quanh đống lửa nữa. Họ đứng thành một vòng tròn, ánh lửa phản chiếu trong mắt họ.

“Chúng ta là băng Rats của vùng Cao Nguyên.” Giselher nói tự hào. “Chúng ta ngửi thấy chiến lợi phẩm từ xa cả dặm. Và không có gì chúng ta không thể lấy trộm. Chúng ta là băng Rats. Lại đây nào, cô gái.”

Cô bé vâng lời.

“Cô không có gì cả.” Giselher nói, đưa cho cô một sợi dây lưng bằng bạc. “Hãy nhận vật này.”

“Cô không có gì và không có ai.” Mislte nói, mỉm cười, choàng qua vai cô một chiếc áo chẽn sa tanh màu xanh lục và một chiếc áo cánh mỏng.

“Cô không có gì.” Asse nhắc lại sau khi đưa Ciri một giải đeo gươm trạm trổ.

“Cô không có gia đình.” Reef nói bằng chất giọng Nilfgaard, đưa cho cô một đôi găng tay mềm. “Cô không có ai...”

“Ở nơi đâu cô cũng là người lạ.” Spark kết thúc miễn cưỡng, và nhanh tay đội một chiếc mũ bê rê đính lông gà tây lên đầu cô. “Một kẻ ngoài cuộc ở mọi nơi và luôn luôn khác biệt. Chúng tôi sẽ gọi cô là gì đây, diều hâu nhỏ?”

Ciri nhìn vào mắt cô ta.

“Gvalch’ca.”

Người elves cười.

“Một khi đã nói, cô nói bằng rất nhiều thứ tiếng, diều hâu nhỏ! Được rồi. Cô sẽ mang một cái tên của Giống Loài Cổ Xưa, một cái tên mà cô đã tự chọn. Cô sẽ được gọi là Falka.”

***

Falka.

Cô bé không ngủ được. Những con ngựa giậm chân và hý khẽ trong đêm, gió xào xạc qua tán thông. Bầu trời đầy sao. Con Mắt, ngôi sao chỉ đường trung thành cho cô trong sa mạc, sáng rực rỡ. Con Mắt nằm ở phía tây. Nhưng Ciri không chắc lắm. Cô bé không chắc về cái gì nữa.

Cô không thể ngủ được dù cho đây là lần đầu tiên trong nhiều ngày cô cảm thấy an toàn. Cô không còn cô đơn nữa. Cô rải chiếu và chăn vào một góc, cách xa băng Rats, đang ngủ trên sàn nhà của cái lán, cạnh đống lửa. Cô ở cách xa họ nhưng vẫn cảm thấy sự gần gũi. Cô không còn cô đơn nữa.

Cô nghe thấy tiếng bước chân.

“Đừng sợ.” Giọng Kayleigh cất lên. “Tôi sẽ không nói với ai đâu,” gã Rats tóc vàng thì thầm, cúi xuống bên cạnh cô. “Tôi sẽ không kể với ai về phần thưởng mà thống đốc Amarillo treo trên đầu cô. Ở cái nhà trọ đó cô đã cứu mạng tôi. Tôi sẽ đền đáp cô. Bằng một điều rất đẹp. Ngay bây giờ.”

Anh ta nằm xuống cạnh cô, từ từ và cẩn thận. Ciri định đứng dậy nhưng Kayleigh ép cô nằm xuống bằng một hành động không thô bạo, mà cứng rắn và mạnh mẽ. Anh ta dịu dàng đặt một ngón tay lên môi cô. Không cần thiết. Ciri đông cứng vì sợ và cổ khô rát, cô không thể kêu được dù muốn. Nhưng cô đã không làm. Sự im lặng và bóng tối tốt hơn. An toàn hơn. Thân mật hơn. Che đi nỗi sợ và ngại ngùng của cô. Cô rên lên một tiếng.

“Im lặng nào.” Kayleigh thì thầm, chậm rãi cởi áo cô ra. Từ tốn và nhẹ nhàng, anh ta kéo lớp vải xuống vai cô và vén áo cô lên. “Đừng sợ. Cô sẽ thấy nó dễ chịu thế nào.”

Ciri rùng mình trước cái chạm của ngón tay anh ta, khô ráp và cứng cỏi. Cô nằm bất động, duỗi người và ngập tràn sợ hãi cùng cảm giác ghê sợ tỏa từng đợt máu nóng lên thái dương và má cô. Kayleigh luồn tay trái cô vào dưới đầu mình và kéo cô lại gần hơn, cố gạt đi bàn tay phải đang vô thức kéo áo xuống trong vô vọng. Cô bắt đầu run rẩy.

Trong bóng tối cô bất chợt cảm thấy một chuyển động, cô cảm thấy một cái giật mình và một cú đá.

“Cô bị điên à, Mistle?” Kayleigh la lên, ngồi dậy một chút.

“Để cô ấy yên, đồ con lợn.”

“Biến dùm. Quay lại ngủ đi.”

“Tôi bảo để cô ấy yên.”

“Tôi có làm gì quá đáng không? Cô ấy có la hét hay giãy dụa không? Tôi chỉ muốn ôm cô ấy ngủ thôi. Đừng chen ngang.”

“Đi ra nếu không tôi sẽ bắt anh đi ra.”

Ciri nghe tiếng một thanh kiếm trượt khỏi vỏ.

“Tôi không đùa đâu,” Mistle nhắc lại, phủ bóng lên họ. “Đi ra chỗ những người khác đi! Ngay lập tức!”

Kayleigh ngồi dậy, chửi rủa. Rồi đứng lên và nhanh chóng bỏ đi.

Ciri cảm thấy nước mắt chảy xuống má, nhanh hơn và nhanh hơn, di chuyển như những con sâu nhỏ bò xuống tóc cạnh tai mình. Mistle nằm xuống cạnh cô và đắp chăn cho cô. Nhưng vẫn để cái áo mở toang. Ciri lại bắt đầu run rẩy.

“Im lặng nào, Falka. Mọi thứ sẽ ổn thôi.”

Mislte ấm áp và có mùi như gia súc và khói. Bàn tay cô, không như của Kayleigh, mềm mại hơn, dịu dàng hơn. Dễ chịu hơn. Nhưng sự đụng chạm lại làm Ciri căng thẳng, cơ thể cô đông cứng với sợ hãi và ghê tởm, cô nghiến chặt răng lại. Mistle nằm dính lấy cô, bao bọc cô và thì thầm những lời ru trấn tĩnh, nhưng bàn tay mềm mại của cô cũng di chuyển không mệt mỏi như một con sên, ấm áp, bình thản, tự tin, quyết đoán, biết rõ đường đi và đích đến của nó. Ciri cảm thấy nỗi sợ buông móng vuốt và giải phóng con mồi, cô cảm thấy cơn khoái lạc và chìm dần, chìm dần, sâu xuống đầm lầy ẩm ướt của buông xuôi.

Cô rên khe khẽ, tuyệt vọng. Hơi thở của Mistle đốt cháy da cô, đôi môi ẩm ướt hôn lên vai cô, xương đòn và dần xuống thấp hơn.

Ciri lại rên lên.

“Im lặng nào, diều hâu nhỏ.” Mistle thì thầm, dịu dàng luồn tay vào dưới đầu cô. “Em sẽ không cô đơn nữa. Không bao giờ nữa.”

***

Ciri tỉnh dậy vào bình minh. Cô luồn ra khỏi lớp chăn ấm áp và từ từ, cẩn thận để không đánh thức Mistle, vẫn đang ngủ say, môi hé mở và tay che mắt. Ciri đắp lại chăn cho cô. Sau một phút lưỡng lự cô bé cúi xuống và dịu dàng hôn lên mái tóc cắt ngắn của Mistle. Mislte khẽ kêu lên. Ciri lau một giọt nước mắt khỏi má.

Cô không còn cô đơn nữa.

Phần còn lại của băng Rats cũng vẫn đang ngủ, một người ngáy ầm ĩ, trong khi người khác xì ra một tiếng rắm. Spark nằm ôm lấy Giselher, tóc tai xõa xượi. Ngựa khịt mũi và giậm chân, chim gõ kiến mổ từng cú chậm rãi.

Ciri chạy ra bờ sông. Cô tắm rửa một lúc lâu, run rẩy vì lạnh. Cô chà xát tay thật mạnh, cố xóa đi những gì không thể xóa được. Nước mắt lại chảy xuống má cô.

Falka.

Nước sủi bọt và bóc hơi trên những tảng đá, chìm vào ở phía xa, vào màn sương.

Mọi thứ chìm vào phía xa. Vào màn sương.

Mọi thứ.

***

Họ là những kẻ ngoài cuộc. Họ là một đám hỗn loạn tạo nên bởi chiến tranh, đau khổ và khinh miệt. Chiến tranh, đau khổ và khinh miệt đem họ lại, và nhổ họ ra, như một dòng suối đánh dạt những hòn cuội đen và những mảnh gỗ lên bờ.

Kayleigh đã thức dậy bên cạnh đám khói, lửa và máu trong một tòa lâu đài bị chiếm đánh, nằm giữa những xác chết của cha mẹ và anh chị em nuôi của mình. Bò giữa những cái xác trong sân trước là Reef. Reef là một người lính trong đoàn quân viễn chinh, mà Hoàng đế Emhyr var Emreis đã gửi đến để đàn áp cuộc nổi loạn ở Ebbing. Anh là một trong những người đã cướp bóc tòa lâu đài sau hai ngày bao vây. Sau khi đã chiếm được tòa lâu đài, đồng đội của Reef đã bỏ mặc anh ta, dù Reef vẫn còn sống. Nhưng chăm sóc người bị thương chưa bao giờ là truyền thống của lực lượng đặc nhiệm Nilfgaard.

Đầu tiên Kayleigh muốn kết liễu Reef. Nhưng Kayleigh không muốn cô đơn. Và Reef cùng Kayleigh chỉ mới 16 tuổi.

Cùng nhau, họ liếm láp vết thương. Cùng nhau, họ giết và cướp một người thu thuế. Cùng nhau, họ bao cả nhà trọ một chầu bia, rồi chạy qua ngôi làng trên những con ngựa ăn cắp, ném đi phần còn lại của số tiền cướp được, suýt chết vì cười suốt cả đoạn đường.

Cùng nhau, họ trốn thoát khỏi lính tuần tra Nilfgaard và Nissir.

Giselher đào ngũ. Chắc đó là quân đội của lãnh chúa Geso đã hợp tác cùng với quân nổi loạn từ Ebbing. Chắc vậy. Giselher cũng chẳng nhớ mình bị bắt đi lính từ lúc nào. Anh say rượu. Ngay khi tỉnh táo và gặp tay sĩ quan đầu tiên, anh bỏ trốn. Đầu tiên, anh lang thang một mình, nhưng khi quân Nilfgaard đập tan liên minh kháng chiến, khu rừng trở nên đầy rẫy những kẻ đào ngũ và tị nạn. Dân tị nạn sớm họp lại thành các nhóm. Giselher gia nhập vào một trong các nhóm đó.

Băng nhóm cướp bóc và đốt cháy các ngôi làng, tấn công các đoàn xe vận chuyển đang bỏ chạy tán loạn trước kỵ binh Nilfgaard. Trong một lần chạy trốn đó, băng nhóm chạy vào rừng nhưng đụng phải người elves, họ tìm thấy cái chết và hủy diệt. Cái chết tới dưới dạng những mũi tên đính lông chim màu xám vô hình bắn từ mọi phía. Một mũi tên trúng vai và găm Giselher vào một cái cây. Người kéo mũi tên ra và chăm sóc vết thương cho anh vào sáng hôm sau là Aenyeweddien.

Giselher chưa bao giờ hiểu tại sao những người elves lại đuổi Aenyeweddien đi, vì tội gì mà cô bị kết án tử hình. Bởi vì đối với một người elves tự do, cái chết chính là sự cô đơn giữa nơi đồng không mông quạnh tách biệt con người khỏi Giống Loài Cổ Xưa. Một người elves đơn độc sẽ chết, nếu không tìm thấy bạn đồng hành.

Aenyeweddien đã tìm thấy một người bạn đồng hành. Tên cô, trong Cổ Ngữ có nghĩa là “Đứa con của lửa”, quá phức tạp và thi vị với Giselher. Anh gọi cô là Spark.

Mistle đến từ một gia đình quý tộc giàu có của điền trang Thurn, nằm về phía bắc của Maecht. Cha cô là một chư hầu của hoàng tử Rudiger, ông tham gia vào quân nổi loạn, bị giết và biến mất không dấu vết. Khi điền trang Thurn bỏ trốn khỏi thành phố trước tin tức về quân đoàn viễn chinh Trị An lừng danh của Gemmer, gia đình của Mislte cũng bỏ chạy, nhưng lạc mất Mistle trong một đám đông hoảng loạn. Một tiểu thư quyền quý và mảnh mai, từ lúc bé đã luôn được chở đi bằng kiệu, không thể theo kịp đoàn người tị nạn. Sau ba ngày lang thang một mình cô rơi vào tay của lũ thợ săn nô lệ theo chân quân Nilfgaard. Một cô gái dưới 17 tuổi rất đáng giá. Nếu cô ấy còn nguyên vẹn. Những tên thợ săn không đụng vào Mislte, sau khi đã kiểm tra là cô còn nguyên vẹn. Sau lần kiểm tra đó, Mislte đã khóc suốt đêm.

Trong thung lũng Velda, đoàn xe của lũ thợ săn bị tấn công bởi một băng nhóm lính đào ngũ Nilfgaard. Họ giết hết lũ thợ săn và các nô lệ nam. Họ chỉ tha cho các cô gái. Các cô gái không hiểu tại sao mình lại được tha. Nhưng cũng chẳng lâu cho tới lúc họ hiểu được.

Mislte là người duy nhất sống sót. Cô được kéo lên khỏi một cái hố, nơi cô bị ném vào đó, trần chuồng, bầm dập, bẩn thỉu, be bét máu và bùn. Cô được cứu bởi Asse, con trai của người thợ rèn trong làng. Anh đã theo chân quân Nilfgaard được ba ngày, điên cuồng với ham muốn trả thù những gì chúng đã làm với cha anh, mẹ anh và các chị em của anh, mà anh đã chứng kiến khi nấp trong một bụi sậy.

Tất cả họ đều gặp mặt vào ngày lễ Lammas, Lễ Hội Thu Hoạch, tại một ngôi làng ở Geso. Chiến tranh và nghèo đói vẫn chưa phá hủy được truyền thống của đất nước. Các nông dân ăn mừng theo đúng phong tục vào ngày đầu tiên của trăng tròn, với ca hát và nhảy múa.

Họ không phải tìm nhau lâu trong đám đông. Họ tách biệt quá nhiều so với những người khác. Họ có nhiều điểm chung. Họ cùng yêu thích sự ồn ã, sặc sỡ, trang phục sáng tạo, nữ trang ăn cắp, ngựa đẹp và những thanh kiếm mà họ thậm chí còn không bỏ ra để nhảy. Họ khác biệt bởi sự kiêu ngạo và tự tin, bằng giọng nói mỉa mai và tính thô bạo.

Và lòng căm hận.

Họ là những đứa trẻ trong thời đại khinh miệt. Và với những người khác, họ chỉ có sự khinh miệt. Thứ duy nhất quan trọng với họ là sức mạnh. Hiệu quả trong chiến đấu, mà họ nhanh chóng có được trên các xa lộ. Ngựa nhanh và kiếm sắc.

Họ trở thành đồng đội. Bạn bè. Bởi vì những kẻ đơn độc sẽ chết vì đói, kiếm, cung, mũi giáo nông dân, hay trên giá treo cổ, hay ngọn lửa. Kẻ nào đơn độc sẽ chết. Bị đâm, đánh đập, đá, làm nhục, như một món đồ chơi chuyền từ tay người nọ sang người kia.

Họ gặp nhau tại Lễ Hội Thu Hoạch. Giselher nghiêm nghị, u ám, gầy gò. Kayleigh mảnh mai, tóc dài, với đôi mắt và cái miệng ác độc xếp trên một gương mặt xấu xí. Reef, vẫn nói bằng giọng Nilfgaard. Mislte, cao, chân dài, mái tóc màu rơm cắt ngắn và xơ như một đầu chổi. Spark, đôi mắt lớn, uyển chuyển, với những bước nhảy nhẹ nhàng nhưng nhanh nhẹn và chết chóc trong chiến trận, với đôi môi mỏng và những chiếc răng nhỏ của người elves. Asse, vai rộng, ria mép trắng và râu xoắn vặn.

Giselher trở thành thủ lĩnh. Họ lấy cái tên Rats. Có người đã từng gọi họ như vậy và họ thích cái tên đó.

Họ cướp và giết, và sự tàn ác của họ trở nên nổi tiếng.

Đầu tiên, các thống đốc của Nilfgaard đánh giá thấp họ. Họ cứ nghĩ rằng, cũng như các băng nhóm khác, họ sẽ sớm trở thành nạn nhân của những tay nông dân phẫn nộ, hay sẽ tự hủy hoại lẫn nhau, khi lòng tham vượt lên trên tình bằng hữu. Các thống đốc đã đúng về những băng nhóm khác, nhưng họ đã sai về băng Rats. Bởi vì băng Rats, những đứa trẻ của khinh miệt, coi thường chiến lợi phẩm. Họ tấn công, họ cướp và giết vì vui thích và lấy đi ngựa, gia súc, rơm, muối, hắc ín và vải vóc của quân đội, rồi phân phát khắp các ngôi làng. Với đầy vàng bạc đủ để trả cho các thợ may và thợ rèn cho những thứ họ yêu thích hơn cả: vũ khí, quần áo và trang sức. Họ trả hậu hĩnh cho những người bao che và chứa chấp mình. Ngay cả khi chịu những nhát roi của quân Nilfgaard hay Nissir, họ cũng không bao giờ phản bội lại băng Rats.

Các thống đốc treo một số tiền thưởng lớn, và có những người đã vui mừng trước ý tưởng về những đồng vàng của Nilfgaard. Nhưng khi đêm xuống, khi căn nhà của những kẻ chỉ điểm bốc lửa, và khi ngọn lửa dịu xuống, những kỵ sĩ ma quỷ hiện ra với vũ khí trên tay. Băng Rats tấn công như những con chuột. Trong im lặng, tàn ác và quỷ quyệt. Chuột thích giết chóc.

Các thống đốc dùng đến những biện pháp khác đã từng có tác dụng với những băng nhóm khác. Họ cố gài vào những kẻ phản bội trong hàng ngũ của Rats. Nhưng không thành công. Băng Rats không chấp nhận ai cả. Họ là một nhóm khăng khít, một hội anh em 6 thành viên, tạo nên bởi thời đại khinh miệt, và họ không muốn người lạ. Họ căm ghét người lạ.

Cho tới một ngày khi một cô gái xuất hiện, tóc màu tro, kín miệng và nhanh nhẹn như một vận động viên, người không biết gì hết về băng Rats.

Ngoại trừ việc cô cũng giống như họ. Cô cũng đơn độc và u buồn, u buồn vì những gì mà thời đại khinh miệt đã cướp đi từ cô.

Và trong thời đại khinh miệt, kẻ nào đơn độc sẽ chết.

Giselher, Kayleigh, Reef, Spark, Mistle, Asse và Falka.

Thống đốc của Amarillo đã ngạc nhiên vô cùng khi biết rằng băng Rats giờ có 7 thành viên.

***

“Bảy?” Ngài thống đốc ngỡ ngàng của Amarillo nói, nhìn vào người lính với vẻ không tin. “Có bảy, chứ không phải sáu? Ngươi chắc chứ?”

“Tôi ước là mình cũng khỏe mạnh được như độ chắc chắn của tôi.” Người lính sống sót khỏi trận thảm sát nói yếu ớt.

Mong ước của anh ta rất đơn giản – cái đầu và nửa khuôn mặt của người lính được che phủ bởi băng gạc và máu. Ngài thống đốc, đã từng tham gia nhiều hơn là một trận đánh, biết rằng người lính đã bị tấn công vào sau lưng từ trên cao – đầu mũi của một thanh kiếm, bay từ trái qua phải, chính xác, đòi hỏi kỹ năng và tốc độ, nhắm vào tai phải và má, nơi mà không được bảo vệ bởi mũ hay thiết cầu sắt.

“Báo cáo cho ta xem.”

“Chúng tôi đang đi dọc Velda theo đường tới Thurn.” Người lính bắt đầu. “Mệnh lệnh là cứu một đoàn xe vận chuyển của lãnh chúa Evertsen đang trên đường về phía nam. Chúng tôi bị mai phục ở gần cây cầu gãy khi vượt qua sông. Một chiếc xe bị mắc, chúng tôi phải dùng ngựa từ chiếc thứ hai để kéo nó qua. Phần còn lại của đoàn xe đã đi trước, tôi bị bỏ lại với 5 người và đại diện hoàng gia. Và chúng tôi bị mai phục. Đại diện hoàng gia, trước khi bị giết, đã kịp hét lên rằng đó là băng Rats rồi chúng cắt cổ ông ta...chúng nhào tới chúng tôi. Khi tôi trông thấy...”

“Khi ngươi trông thấy ông ta,” ngài thống đốc làu bàu, “ngươi đã thúc ngựa chạy đến. Nhưng quá trễ để cứu mạng ông ta.”

“Cô ta bắt kịp tôi.” Người lính cúi đầu. “Người thứ bảy. Tôi đã không trông thấy cô ta. Một cô gái. Gần như là trẻ con. Tôi đoán là cô ta đã bị bỏ lại đằng sau băng Rats, bởi vì cô ta còn trẻ và thiếu kinh nghiệm...”

Một người khách viếng thăm của ngài thống đốc hiện ra từ trong bóng tối nãy giờ đang ngồi.

“Đó có phải một cô gái không?” Ông ta hỏi. “Cô ta trông thế nào?”

“Như tất cả bọn chúng. Trang điểm nhòe nhoẹt như elves, sặc sỡ như một con vẹt, mặc đồ tím và gấm thêu, đội một cái mũ đính lông chim.”

“Tóc vàng?”

“Tôi nghĩ vậy, thưa ngài. Khi trông thấy cô ta, con ngựa của cô ta chạy rất nhanh, nghĩ rằng đồng đội của mình sắp biến thành thịt xay và cô ta sẽ bắt chúng tôi trả giá bằng máu...Tôi lao tới từ bên phải và chém cô ta. Cô ta làm cách nào tôi không thể biết được. Nhưng tôi đã trượt. Như thể thanh kiếm chém xuyên qua một bóng ma...Tôi không biết thế quái nào...như thể tôi bỗng dưng đứng lại và cô ta luồn ra sau tôi. Ngay vào mũi...thưa ngài, tôi đã từng ở Sodden và Aldersberg. Và giờ thì nhờ cô gái đó tôi đã có một món quà lưu niệm để đời trên mặt...”

“Hãy mừng là ngươi còn sống,” ngài thống đốc khịt mũi, nhìn vào người khách của mình. “Và hãy mừng là ngươi bị thương khi vẫn đang tỉnh táo. Giờ ngươi sẽ trở thành một người hùng. Nếu ngươi trốn tránh trận chiến, nếu ngươi không có món quà lưu niệm trên mặt khi báo cáo về việc mất hàng và mất ngựa, ngươi sẽ sớm thấy mình đang đứng trên giá treo cổ. Giờ thì đi đi. Tới bệnh viện đi.”

Người lính rời đi. Ngài thống đốc quay ra vị khách.

“Ngài thấy đó, thanh tra, rằng công việc ở đây không hề dễ dàng, tôi chẳng được nghỉ ngơi chút nào, luôn tay luôn chân. Còn ngài, ở thủ đô, ngài nghĩ rằng các tỉnh chỉ toàn ruồi muỗi, bia rượu, gái điếm và các quan chức ăn hối lộ. Ngài không bao giờ gửi thêm người hay chó săn, chỉ thêm mệnh lệnh –cho, nhận, tìm. Đặt mọi người vào trạng thái cảnh giác, chạy dọc chạy xuôi từ sáng tới tối...và ở đây chúng tôi đã có đủ rắc rối của riêng mình rồi. Năm hay sáu băng nhóm như Rats luôn rình rập xung quanh. Đúng là băng Rats là bọn tồi tệ nhất, nhưng không ngày nào...”

“Đủ rồi, đủ rồi.” Stefan Skellen mím môi. “Tôi biết mấy màn cằn nhằn của ông có mục đích gì, thống đốc. Nhưng vô ích thôi. Ông không được từ bỏ trách nhiệm. Rats hay không Rats, băng nhóm hay không băng nhóm, ông phải tiếp tục tìm kiếm. Bằng mọi cách có thể, cho tới khi tôi bảo dừng. Đây là mệnh lệnh của Hoàng đế.”

“Chúng tôi đã lùng sục ba tuần nay rồi.” Ngài thống đốc càu nhàu. “Mà không biết rằng mình đang phải tìm ai, hay cái gì, một bóng ma, hay một cây kim dưới đáy bể. Và kết quả là gì? Vài người của tôi đã biến mất không dấu vết, khả năng lớn là bị giết bởi cướp hoặc lũ ăn mày. Tôi sẽ nhắc lại, ngài thanh tra, nếu chúng tôi vẫn chưa tìm được cô gái của ngài, nghĩa là cô ta sẽ không bao giờ tìm được. Kể cả nếu cô ta có ở đây thật, mà tôi rất nghi ngờ điều đó. Trừ khi...”

Thống đốc dừng lại, ngẫm nghĩ, nhìn ngài thanh tra với vẻ dò hỏi. “Cô gái đó...thành viên thứ bảy của băng Rats...”

Cú Nâu vẫy tay, cố để hành động của mình có vẻ đáng tin.

“Không, thống đốc. Đừng tìm giải pháp dễ dàng. Cô gái đã được miêu tả hay bất kỳ cô gái nào mặc gấm thêu thì chắc chắn không phải là người chúng ta muốn. Chắc chắn không phải là cô ta. Tiếp tục tìm đi. Đó là lệnh.”

Ngài thống đốc lầm bầm, nhìn ra cửa sổ.

“Còn về băng nhóm đó,” Thanh tra trưởng của Hoàng đế Emhyr, Stefan Skellen, còn gọi là Cú Nâu, thêm vào bằng một giọng lạnh lùng, “băng Rats hay chúng tên là gì đi chăng nữa...hãy lập lại trật tự, thống đốc. Trật tự phải tồn tại ở các tỉnh. Bắt tay vào việc đi. Tóm và treo cổ chúng lên, không cần màu mè hay quy trình. Tất cả bọn chúng.”

“Nói thì dễ lắm.” Ngài thống đốc lầm bầm. “Nhưng tôi sẽ làm hết khả năng. Hãy đảm bảo với Hoàng đế như vậy. Nhưng tôi nghĩ là thành viên thứ bảy này của băng Rats đáng giữ lại, để chắc ăn...”

“Không,” Cú Nâu ngắt lời, cẩn thận để giọng của mình không lộ ra điều gì. “Không, không ngoại lệ, treo cổ tất cả lên. Tất cả bảy tên. Tôi không muốn nghe thêm về chúng nữa. Tôi không muốn nghe thêm một lời nào nữa.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.