“Chờ cho Lưu Chấn Hám và Hải Luân bước chân lên được tòa tiểu đảo kia, thì thời gian phải qua thêm nửa tháng nữa.
Lưu Chấn Hám sau khi trở về, nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng quyết định chờ cho thương thế của mình khỏi hẳn rồi mới đi. Trực giác của một trinh sát báo cho Lưu Chấn Hám biết, đảo đối diện không hề đơn giản như thế.
Hai người, Hải Luân và hắn, kỳ thật đều dựa vào một cái lý.
Hải Luân vốn vẫn nghĩ đến chuyện con “phong hệ ma lang”. Nàng đề tỉnh “Lý Sát” thân ái của mình, rằng chiến đấu lực của “phong hệ ma lang” trong Ái Cầm đại lục được xem không phải là hàng kém. Hải Luân nguyên có một con ma sủng gọi là Thiểm Điện Ma Kính, so với loại ma lang này có bản lĩnh tương đương, đấu với nhau cũng một chín một mười.
Chỉ nghĩ đến chuyện hai người hiện giờ chỉ có một con là “Sương tuyết bì tạp thú”, một con là “Toan dịch ngư ưng”, Hải Luân cảm thấy lạnh xương sống.
Tuy biết giới ma thú đều phân địa vực riêng. Một tiểu đảo như thế này khó có thể xuất hiện thêm một ma thú cấp cao nào hơn so với ma lang, nhưng Hải Luân vẫn còn lo vạn nhất con ma lang kia có bà con thân thích thì sao? Chỉ cần có thêm một thành viên trong gia đình ma lang ấy xuất hiện nữa, thì hậu quả khó mà tưởng tượng được.
Suy đi nghĩ lại, sau khi Lưu Chấn Hám nghe hết về chuyện phân chia địa bàn của ma thú, tâm lý chợt an định không ít. Nếu y theo lời ấy, thì Lưu Chấn Hám có chút tự tin để liều được.
Trong hai ngày này, sau khi Hải Luân cho Lưu Chấn Hám nhàn nhã một lúc, thì bắt đầu giảng không ít điển cố trên Bỉ Mông vương quốc, phần lớn là những thường thức trong giới tế tự.
Khi Hải Luân nói đến thú nhân trong Bỉ Mông, có nhắc đến dũng sĩ của Nga Lặc phân tượng tộc có thân người cao tới hai thước rưỡi, thần lực kinh nhân, có thể cử tảng đá nặng nghìn cân, so với Nhĩ Tộc bạo hùng võ sĩ thậm chí còn hơn. Lưu Chấn Hám nghe thế tặc lưỡi khen kỳ. Trong chiến đấu, trước đây ở chiến trường Nam Cương, hắn còn kiêu ngạo dẫn đầu lam cầu đội. Hiện giờ nghe vậy, so ra hắn còn có nhiều điểm tự ti rồi.
Nhưng cuối cùng thì cũng có đề tài đáng nghe.
Đề tài Lưu Chấn Hám thích nghe nhất là người thuộc thánh đàn tế tự trong thế giới Bỉ Mông có thân thể và sức lực đều thuộc hàng yếu nhược. Họ có thân hình thấp bé, dù đầu óc được tạo thành từ một chủng tộc cơ linh. Điều này khiến Lưu Chấn Hám khoái chí ít nhiều, vì bản thân hắn so ra còn có thể đại triển quyền cước trong Thánh đàn tế tự.
Hắn dặn lòng không được xem nhẹ cái thân phận “Thiên sanh linh hồn ca giả” của mình. Hắn tự lượng thấy, mình còn có thể may mắn dùng các kỹ năng trinh sát được học trước đây để làm nhiều chuyện khác nữa trong thế giới Bỉ Mông này.
Có suy nghĩ như vậy, cả nửa tháng gần đây Lưu Chấn Hám càng lúc càng cần mẫn. Thương thế của hắn đã giảm hết chín phần mười, các vết thương trên tay cũng lành đi nhiều. Các cây dừa trước cửa “nhà” hắn cũng được dùng làm đối tượng tập luyện “phách phách” tối ngày.
Tên nhóc tì Quả Quả cũng bắt đầu theo hắn học cách dùng bàn tay đầy móng vuốt nắm thành quyền, đấm mạnh vào mấy cây dừa đó. Lưu Chấn Hám luyện “Tái bột”, nó cũng học theo “Bột tái”.
Lưu Chấn Hám bị tên tiểu tử này làm cho vui vẻ không ít.
Hải Luân đắm chìm trong hạnh phúc, không ít lần khuyên “Lý Sát” của nàng không cần luyện tập cái thứ quyền cước ấy, nhân vì Thánh đàn tế tự không cần phải có vũ lực cường đại. Thất Cách tộc về mặt thể lực so với các chủng tộc khác trong chiến tranh thì thấp kém hơn nhiều, công lao ấy bỏ ra hoàn toàn vô ích. Cự tượng chiến sĩ của Nga Lặc phân tộc có thể dùng quyền đánh một cái là ngã văng một cây dừa.
Nếu như thành Thánh đàn tế tự, thì mạng có thể được bảo vệ bởi những kỵ sĩ hàng đầu. Dù họ có đeo đuổi con đường làm một Bỉ Mông chiến sĩ cường đại, thì rốt cuộc cũng phải theo một vị tế tự tiền đồ vô lượng mà thôi. Do đó, cùng với việc luyện năng lực cận chiến của mình, Lưu Chấn Hám không hề có thời gian rảnh, tập trung toàn lực luyện “Ca lực”.
Lưu Chấn Hám nghe Hải Luân đề cập đến mấy từ “ca lực” này, thủy chung không hiểu rõ nó là ý gì.
Hải Luân giải thích với hắn, “Ca lực” so với “ma lực” của ma pháp sư bên phía nhân loại có cùng một đạo lý. Một bên là thánh đàn tế tự thủy chung như nhất , không ngừng ngâm xướng chiến ca. Sau khi lên được cấp Chiến tranh tế tự, muốn học tập được “Cuồng bạo chiến ca”, “Thị huyết chiến ca”, thì đều phải cần có “Ca lực” thực mạnh mới chịu nổi.
Trình độ tích lũy "Ca lực" càng cao, khả năng tuần hoàn sử dụng càng mạnh. Tích lũy “Ca lực” cũng giống như “Ma lực” vậy, cần thông qua quá trình minh tưởng mới gia tăng được.
Hải Luân cho “Lý Sát” của mình một ví dụ sinh động, ví như nếu như được gia trì “Huy hoàng chiến ca”, cánh tay nặng trịch cầm mâu của một tên Thất Cách tộc hào trư có thể gia tăng kỷ năng phóng lên thêm ba phần. Một cự tượng dũng sĩ thuộc Nga Lặc phân tộc nếu được gia trì thêm “Thạch phu chiến ca”, thì da thịt vốn cương ngạnh chợt cứng như đá, giảm hẳn chấn thương vật lý. Nhưng vòng hào quang bao phủ của chiến ca chỉ có thể tồn tại trong một thời gian ngắn. Nếu không tiếp tục gia trì, thì lực lượng của chiến ca đem lại sẽ mất đi, phải chờ tế tự ngâm xướng chiến ca trở lại mới phục hồi.
Tế tự càng có “Ca lực” mạnh chừng nào, thì trên chiến trường càng có khả năng sử dụng chiến ca nhiều lần, khiến cho tài năng của các chiến sĩ phụ cận của mình càng nâng cao.
Đồng dạng, độ tinh thuần của “Ca lực” biểu hiện ở phạm vi ngâm xướng chiến ca. Một Chiến tranh tế tự phổ thông chỉ có thể gia trì trong khuôn viên ba chục mét. Vượt qua giới hạn này, các chiến sĩ trên chiến trường tạp loạn không có khả năng nghe được chiến ca thanh của tế tự nữa, dĩ nhiên sẽ không có cách gì đạt được sự chúc phúc của chiến thần. Nếu thay vào đó là một Chiến tranh tế tự ưu tú, “Ca lực” sung mãn và tinh thuần hơn, phạm vi gia trì của chiến ca do đó cũng khuếch đại hơn.
Kết luận lại, “Ca lực” chính là phương thức chủ đạo và duy nhất của tế tự.
Lưu Chấn Hám cuối cùng cũng hiểu chiến ca có hàm nghĩa gì. Hắn cảm thấy tế tự cũng giống như chính ủy, chỉ đạo viên trong quân đội vậy. Trước khi ra chiến trường, họ cũng đến động viên, uống vài chung rượu, rồi nghêu ngao kêu gọi mọi người ra chiến trường.
Dù sao thì lời “tiểu hồ ly” nói có vẻ hàm hồ, Lưu Chấn Hám phải bỏ hết một ngày minh tưởng lại mọi chuyện.
Quá trình minh tưởng thật là khô khan, Lưu Chấn Hám chưa nghĩ được năm phần đã ngáy khò khò, nước dãi chảy đầy mặt. Ngủ một giấc dài dậy, thấy Hải Luân mặt lạnh như tiền nhìn mình, Lưu Chấn Hám tự cảm thấy mình có điều không phải rồi.
Liều cái mạng già, nghiêm mặt đạo mạo, nói một thôi một hồi mới có thể khiến “tiểu hồ ly” cười trở lại được.
Lưu Chấn Hám phát thệ không thèm nghĩ gì khác, chỉ tập trung suy tưởng và đoán luyện “Ca lực” thôi. Hắn cảm thấy giọng mình khá to. Ca ca trước nói hắn có cái giọng như thanh la vỡ, nói gì cũng vang vang, giờ lại còn phải luyện cho giọng mạnh hơn nữa thì sao đây cà!?
Và thế là lại chuyển sang luyện quyền cước!
Mấy ngày này hắn cứ một mực khổ luyện “Tái bột”. “Tái bột” là thứ đòn chân trong quân đội Xô Viết, là một trong số kỹ thuật được các lão đại trong Trinh sát binh của quốc gia học được. Sau nhiều năm, chúng bị mất đi không ít chiêu thức. “Tái bột” là thức còn bảo lưu, nhất mực được huấn luyện trong khuôn khổ “Một chiêu chế địch” dành cho trinh sát binh.
“Tái bột” là một đòn khóa, chuyên môn xoắn lấy thân thể của đối phương. Đòn “Tái bột” hợp cách có thể sử dụng hai chân bẻ gãy hai chân địch thủ. Lưu Chấn Hám trước đây trong trinh sát học được hai môn giỏi nhất là “Tái bột” và khả năng chạy nhanh “Chuyển luân thủ.”
Lưu Chấn Hám nhận thấy sau lần đối diện với con ma lang, thân thể của hắn vốn chưa hề khôi phục trạng thái bình thường, do đó mới bị thê thảm như vậy. Lần này nếu gặp lại, xem ra phải nhanh chóng khiến cho nó không kịp có cơ hội ra tay nào.
Mấy hạt dưa thuận tay chăm bón trước cửa nhà giờ đã mọc thành dây, bò dài ra đất. Chúng nhiều lần bị gió lớn hủy mất một phần, chỉ có những dây ở dưới đất may mắn thoát khỏi. Lưu Chấn Hám cho thêm đất vào. Hắn tính, nếu như phải ở thêm vài tháng, mấy dây dưa này có thể kết thành quả. Khi nghĩ đến mùi vị ngon ngọt của dưa, Lưu Chấn Hám tặc lưỡi nuốt nước miếng đang tươm đầy trong miệng.
Mấy trái dưa này có thể chứa nước. Sau này đi biển, chúng sẽ là thứ giải khát không tồi.
Khi nghĩ đến Hải Luân sẽ ăn mấy trái dưa mọng nước này, cần đi nhà xí, Lưu Chấn Hám thầm cười rất gian. Bè gỗ có lớn gì cho cam, xem cô nhóc nhà ngươi núp ở xó nào được?
Đợi cho Lưu Chấn Hám cảm giác mũi của mình hoàn toàn bình phục, thì cũng đến lúc dẫn Hải Luân bước sang tòa tiểu đảo bên kia.
Hắn vô cùng cẩn thận, mang theo đủ thực vật, da sói ngự hàn, áo quần, cùng cung tiễn và loan đao.
Hải Luân cũng phóng cho con ngư ưng của mình bay lên, người và chim tâm linh cảm ứng, thông qua tiếng chim kêu để cảm giác mối uy hiếp ẩn giấu đâu đó.
Tòa tiểu đảo này có nhiều cây bụi và rậm rạp hơn đảo họ đang ở. Miệng núi lửa cách bờ khoảng nửa dặm. Trên đường đi, Lưu Chấn Hám càng lúc càng cẩn thận.
Có vài động vật nhỏ thường làm hắn kinh hãi, nhưng mỗi lần tên sắp rời cung, thì đều phát hiện bất quá chúng là những thứ nhỏ nhoi chẳng đáng ngại gì.
Đến được miệng núi lửa, bản thân Lưu Chấn Hám cũng cảm thấy sửng người.
Rêu xung quanh miệng núi lửa xanh rì như cỏ trên mặt đất, thậm chí có thể thấy được lớp đá mắc-ma đã nhuốm rêu xanh. Đứng trên miệng núi lửa, Lưu Chấn Hám đưa tay ra, cảm giác được từng dòng khí mát mẻ xuyên qua lại trên từng đầu ngón tay.
Từ trên nhìn xuống, địa hình lập thể bên dưới sâu khoảng mười lăm mét, tạo nên một đới khí hậu riêng theo chiều thẳng đứng. Hai tòa đảo đều ít hoa ít cỏ, nhưng trong miệng núi lửa này lại mọc đều khắp các tầng đá bậc thang, trông giống như một thác nước tự nhiên rót xuống vực sâu vậy. Rừng trúc cao đến mười mét là nhóm thực vật tầng cao chủ yếu ở nơi này. Toàn bộ miệng núi lửa nhìn rất thông thoáng tịch liêu, nhưng cũng thần bí thâm u.
Biển…
Núi xanh trăm dặm liên miên dài...
Chập chờn thoáng hiện từng hàm răng chặn...
Núi cao xanh ngắt xuyên vút trời cao...
Mây trắng lượn lờ muôn nghìn răng ngọc...
Núi xanh trăm dặm liên miên...
Đang ở bên trên giường răng đỏ...
Núi xanh cao vút xuyên mây...
Đứng đó một tình lang hữu tình...
Ta đứng trên cao nhìn xa xa...
Cả dải biển trời mênh mang quá....
Lưu Chấn Hám nhìn đến cảnh sắc mỹ lệ ở đây, vốn muốn ngâm vài câu thơ, nhưng nghĩ mãi trong óc mà chẳng nhớ được câu nào, cuối cùng phải hát lên bài “Đứng trên gò cao” của Long Phiêu Phiêu. Lời ca của Long Phiêu Phiêu chính là món hắn ưa thích, nhập tâm đến nỗi chẳng nghĩ mà phát nên lời.
Mặc dù còn có chút sai sót, nhưng cơ bản bài này hắn hát hay hơn nhiều so với lúc bình thường.
Lời ca hùng hồn vang vọng xuống miệng núi lửa bên dưới. Tiếng vọng lại từ sơn cốc khiến rừng trúc không thể nào che hết, vang đi dội lại, giống như hàng chục Lưu Chấn Hám đang hát vậy.
Khúc ca vừa hết, hắn mới phát hiện Hải Luân đang nhìn mình với ánh mắt đã thay đổi nhiều.
*********
Thiết định: Trong truyện này, các ma pháp sư, thú nhân tế tự, và Phong bạo tê liệt thuật sĩ của Hải tộc đều là những kẻ yếu đuối, số lượng cũng rất ít.