[Dịch] Thiên Hạ Kiêu Hùng

Quyển 9-Chương 28 : Sát nhân vô hình




Năm trước quận Tề đại hạn, dân đói khắp nơi, hơn nữa triều đình trưng sáu trăm ngàn dân phu vận chuyển lương thực đi Liêu Đông khiến cho dân chúng sôi trào, huyện nha bị đập, nhà kho của quan bị đoạt. Việc Trương Tu Đà giết một người răn trăm người đã dọa sợ dân đói cướp lương thực, nhưng ông cũng biết, người quận Tề đã bị dồn đến tuyệt cảnh, nếu không cho bọn họ một con đường sống, hơn mười vạn người này sẽ lên núi làm tặc.

Bởi vậy, ông không để ý chúng quan phản đối, dứt khoát quyết định tự mở kho giúp nạn dân, để cho cảnh dân đói sắp bùng nổ một con đường thoát, ngọn lửa oán thán phẫn nộ của dân chúng dần dần dịu lại. Sau đó, Trương Tu Đà không những không bị xử phạt, Tùy Đế Dương Quảng còn đặc biệt khen ngợi, theo gương Trương Tu Đà, lệnh quan viên địa phương đều mở nhà kho cứu trợ thiên tai, cho tầng dân chúng thấp nhất sống qua mùa đông năm Đại Nghiệp thứ sáu gian nan nhất.

Lần này Dương Nguyên Khánh đến tuần tra thực ra là tổng kết việc năm ngoái mở kho giúp nạn dân, nếu không có chuyện hối lộ trái pháp luật gì đó, chuyện này coi như chấm dứt.

Còn vì sao kiểm tra quận Tề trước, giải thích theo lẽ thường thì quận Tề là nơi đầu tiên mở kho trợ cấp thiên tai, nên nơi kiểm tra đầu tiên sẽ là quận Tề.

Dương Nguyên Khánh nói qua về tình hình một hồi, Trương Tu Đà thản nhiên nói:

- Tất cả sổ sách cứu trợ thiên tai đều đầy đủ, rành mạch, Trương Tu Đà ta không tham mô một hạt lương thực. Nguyên Khánh, cứ việc công bằng mà kiểm tra, cho dù tra ra chuyện gì khác, ta cũng sẽ thản nhiên nhận xử phạt.

Vốn là tiệc thết khách xa thật là vui vẻ, thái độ của Trương Tu Đà đột nhiên trở nên nghiêm túc, bầu không khí nhẹ nhàng không còn, tất cả lặng ngắt như tờ, ngay cả La Sĩ Tín cũng không dám hé răng.

Dương Trí Tích thấy vậy vội vàng cười một tiếng:

- Trên tiệc rượu không nói chuyện công việc, chúng ta tiếp tục nói chuyện rượu nho nào. Dương lão đệ, không biết rượu nho Đại Lợi so với Cao Xương, loại nào tốt hơn?

Tan tiệc thết khách xa, trong quận nha chỉ còn lại Dương Nguyên Khánh và Trương Tu Đà. Lúc này Dương Nguyên Khánh mới công bằng nói:

- Trước khi đồ đệ đi, Thánh Thượng có ban cho con hai mệnh lệnh, hạn mức cao nhất là trăm thạch lương thực, hễ tra ra có binh sĩ quan viên tham ô quá năm trăm thạch đều buộc tội xử trảm, còn ai tham ô từ trăm thạch tới dưới năm trăm thạch phải kê vào một danh sách dâng lên Thánh Thượng, nếu thấp hơn trăm thạch có thể tha. Nhưng thực ra chúng con cũng phải kiểm tra sổ sách là chính, chỉ cần rõ ràng, thủ tục đầy đủ, cơ bản là có thể buông tha, cho nên kể cả sư phụ có chút vấn đề, con cũng sẽ không truy cứu, xin sư phụ cứ yên tâm.

Trương Tu Đà sa sầm nét mặt:

- Vừa rồi ta đã nói qua, ta trong sạch, thanh thanh bạch bạch, chẳng lẽ còn nghi ngờ lời của ta sao?

Dương Nguyên Khánh cười khổ:

- Trong mắt Ngự Sử không có hai chữ “Trong sạch”, nếu không tra ra vấn đề gì thì đó là Ngự Sử vô năng. Nếu báo cáo điều tra như vậy Thánh Thượng cũng không nhận, hơn nữa người là sư phụ con, con tra ra trong sạch, khẳng định sẽ có người muốn tới điều tra. Nếu là một Ngự Sử cương trực, có thể y sẽ bẩm báo chi tiết, còn nếu là một kẻ giỏi đón ý nói hùa Thánh ý, cho dù sư phụ không có vấn đề gì, y cũng sẽ bịa ra vấn đề, khi đó vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng. Sư phụ hiểu ý con chứ?

Trương Tu Đà lạnh lùng:

- Ý là muốn ta tạo ra chút vấn đề đúng không?

Giọng Trương Tu Đà vô cùng lạnh lùng, cũng kèm theo một tia thất vọng. Ông cảm thấy đồ đệ của mình đã hơi thay đổi, trở nên mười phần mưu quyền vị, tựa như một kẻ lõi đời chìm nổi trong quan trường, đã không còn là sự kiên cường chính trực thuở thiếu niên.

Trương Tu Đà chắp tay sau lưng đứng trước cửa sổ, nhìn về phương xa, nửa ngày sau mới hỏi:

- Nếu Ngự Sử thứ hai tạo ra bằng chứng giả bất lợi cho ta, sẽ có ảnh hưởng gì?

Dương Nguyên Khánh có thể cảm nhận được sự bất mãn trong lòng sư phụ đối với mình, hắn cũng biết nguyên nhân của sự bất mãn này. Nhưng lòng hắn cũng rất bất đắc dĩ, trong quan trường luôn có người ám phục, chỉ cần hơi vô ý sẽ chết vào tay đối thủ.

Thực ra Dương Quảng và hắn cũng chỉ cụ thể nói về giới tuyến xét xử vụ án, ít nhất trước tra ai, sau tra ai, Dương Quảng cũng không nói rõ, nhưng Thánh chỉ lại viết trước tiên tra quận Tề, mà Thánh chỉ là Ngu Thế Cơ phác thảo. Hắn nghi ngờ đây là Ngu Thế Cơ cố ý an bài, mục đích là đẩy quận Tề lên vị trí đầu tiên bị tra xét, như vậy sẽ khiến cho Dương Quảng liên tưởng đến mối quan hệ của mình và Trương Tu Đà.

Sau đó Ngu Thế Cơ có thể mượn chuyện này để nói chuyện mình, lại phái Ngự Sử, dùng cái chiêu chính mình đối phó với Trương Dịch Vân kia để đối phó với Trương Tu Đà.

Cuối cùng tra ra tội lớn của ông, sau đó buộc tội liên đới tới mình bao che khuyết điểm. Dương Nguyên Khánh đấu tranh trong quan trường đã nhiều năm, loại thủ đoạn giết người vô hình này hẵn đã có thể mẫn cảm để nhận ra.

Nhưng Dương Nguyên Khánh cũng rất hiểu sư phụ mình. Nếu chính mình cũng sẽ chịu liên lụy, ông tất nhiên sẽ làm việc trái với lương tâm sau đó cả đời sẽ lại canh cánh trong lòng.

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một hồi lâu mới nói:

- Là con sợ sư phụ bị tạo tội lớn.

Trương Tu Đà cười lạnh:

- Nếu là vì lý do này thì không vấn đề gì, cứ để bọn chúng tới tra. Nếu bọn chúng bịa đặt cố tình vu oan cho ta, ta sẽ đấu tranh với Thánh Thượng. Nếu Thánh Thượng tin lời gièm pha nhất định phải giết ta, ta cũng chỉ có thể nhận mệnh. Nói tóm lại, ta thà chết cũng tuyệt không thừa nhận mình tham ô quan lương, vơ vét mồ hôi nước mắt của dân chúng.

Dương Nguyên Khánh thầm thở dài, nếu sự phụ thật sự bị giết oan, thì cột trụ cuối cùng của Đại Tùy cũng sẽ không còn. Hắn cảm thấy mình đã không thể tiếp tục đề tài này với sư phụ, bèn chuyển đề tài:

- Còn phản tặc nữa. Không phải sư phụ chuẩn bị trước vụ hè sẽ diệt trừ Vương Bạc và Mạnh Nhượng sao? Có cách nào khả thi chưa?

Khi nói tới phản tặc, Trương Tu Đà lập tức có tinh thần, cũng cười nói:

- Ta đương nhiên là có phương án, có thể sẽ bắt được Vương Bạc và Mạnh Nhượng. Lương thực của bọn chúng đã không chống đỡ nổi, tối nay, ta sẽ dẫn quân tới quét sạch núi Trường Bạch.

Tới đêm, Trương Tu Đà để lại năm trăm người thủ thành, tự mình dẫn bốn ngàn quận binh cuồn cuộn đi tới núi Trường Bạch diệt phỉ.

Núi Trường Bạch nằm ở nơi giao nhau của bốn huyện, phần lớn triền núi ở trong cảnh nội Chương Khâu, thế núi đuổi nhau, trùng trùng điệp điệp, còn được xưng là Thái Sơn phó nhạc, nguyên nhân là vì thường có mây trắng lượn lờ mà thành tên. Là vì núi cao rừng sâu, khe vực khắp nơi, có thể giấu binh đến triệu người, bởi vậy Trương Tu Đà đã vài lần mang binh tới bao vây diệt trừ đều không thành công.

Trải qua hơn một năm, quân đội của Vương Bạc đã tới hơn ba mươi tư ngàn người, cho dù sau chuyện ở huyện Chúc A cướp ngựa gặp thảm bại, hơn bốn ngàn người bị giết, nhưng Vương Bạc vẫn còn binh lực gần ba mươi ngàn.

Núi Trường Bạch, ngoại trừ quân đội của Vương Bạc còn có hơn mười đội sơn tặc, cũng phải tới mấy trăm ngàn người. Từ trước khi Vương Bạc tới bọn chúng đã vào núi Trường Bạch làm cướp, tên gọi sơn phỉ, tuy nhiên, nguy hại cũng không lớn, nhiều nhất cũng chỉ là cướp của khách thương qua lại, hoặc sáo nhiễu thôn trấn phụ cận núi Trường Bạch.

Nhưng đầu năm nay, núi Trường Bạch lại xuất hiện một đội phản tặc rất mạnh, tới gần mười ngàn người. Đầu lĩnh tên Mạnh Nhượng, là một đại tướng văn võ song toàn. Y nguyên là thủ hạ của Trương Tu Đà, giữ chức chủ bộ, vì phẫn hận Dương Quảng đánh Triều Tiên mà dứt khoát tạo phản, khẩu hiệu của y là “Thà rằng chết ở nhà, không làm vong Liêu Đông”, cũng lôi kéo rất đông tráng đinh trốn binh dịch và binh sĩ, khiến cho lực lượng của y lớn mạnh nhanh chóng, trở thành đệ nhị sơn thần của núi Trường Bạch.

Vương Bạc và Mạnh Nhượng vốn là hai đội quân độc lập, nhưng Vương Bạc sau khi bại binh ở huyện Chúc A liền lập tức tới thăm Mạnh Nhượng, sau một hồi ăn đắng, cuối cùng Mạnh Nhượng cũng đáp ứng yêu cầu của gã, hai đội quân nhập làm một, Vương Bạc tự xưng là Phiêu Kỵ đại tướng quân, Mạnh Nhượng tự xưng là Quán Quân Đại tướng quân, hai người Thống soái quân đội bốn mươi ngàn người.

Hai đội quân nhập lại cũng là bất đắc dĩ, cả hai bên đều gặp phải vấn đề lương thực nghiêm trọng, phải nuôi bốn mươi ngàn người, mỗi ngày đều cần rất nhiều lương thực, mà thân hào nông thôn quận Tề gần như đều trốn vào trong thành, nông thôn nơi nơi hoang vắng, lương thực vụ chiêm chưa trồng, bọn họ đã không còn nơi nào mà cướp.

Hợp binh lại, lực lượng lớn mạnh, bọn chúng bắt đầu nghĩ đến việc cướp thị trấn, chỉ có cướp thị trấn mới có thu hoạch, nuôi sống bốn mươi ngàn thủ hạ.

Nhưng sau khi suy xét phương án cụ thể, hai người lại nảy sinh mâu thuẫn, Vương Bạc chủ trương chỉ cướp thị trấn nhỏ, cướp một hồi xong quay về núi, còn Mạnh Nhược lại muốn chiếm hẳn một tòa thành trì lớn, cát cứ một phương, lập nội chúng, nuôi lực lượng lớn mạnh, đối kháng với vương triều Tùy.

Hai người thương lượng hai ngày vẫn không có kết quả. Sáng sớm hôm nay, Mạnh Nhượng vội vàng tới Nghị sự đại sảnh. Y khoảng chừng ba mươi lăm ba mươi sáu tuổi, nhỏ hơn Vương Bạc mười tuổi, thân hình cao lớn khôi ngô, vốn xuất thân gia đình quan lại, phụ thân từng là Bắc Tề Bình Nguyên Thái Thú, sau khi Bắc Tề bị tiêu diệt liền ẩn cư tại nhà dạy con văn võ.

Hai mươi tuổi, Mạnh Nhượng trưởng thành, xuất môn vân du thiên hạ, sau đó được người giới thiệu, tới quận nha quận Tề làm chủ tới giờ đã được mười năm, mặc dù thân ở đó nhưng lòng trải khắp thiên hạ, lần này Tùy đế phạt Triều Tiên, khiến cho đạo tặc Sơn Đông nổi dậy như ong, Mạnh Nhượng cho rằng cơ hội đã đến rồi, dứt khoát dấy binh tạo phản.

Quan phủ các nơi đều mở quan kho cứu trợ thiên tai, lòng tạo phản của dân chúng cũng giảm bớt, lúc này Mạnh Nhượng mới ý thức được thời cơ y nắm được còn chưa thật chắc, dấy binh quá sớm, nhưng hiện tại đã không còn cách nào khác, chỉ có thể tạm thời đi theo Vương Bạc cũng có chút danh vọng và chờ cơ hội.

- Đại ca, tìm ta sớm thế làm gì?

Mạnh Nhượng đi vào đại sảnh đã cười nói.

Binh doanh của bọn chúng đều là lều lợp từ cỏ, chỉ duy nhất một tòa được xây bằng gạch, đó là một tòa miếu sơn thần, tượng gỗ của sơn thần đều đã được dọn sạch ra ngoài, chính điện đã trở thành nghị sự đại sảnh của bọn chúng.

Vương Bạc thở dài:

- Hiền đệ, có hai chuyện cần nói. Chuyện thứ nhất, lương thực của chúng ta chỉ đủ cho hai ngày.

Mạnh Nhượng ngạc nhiên:

- Dưới chân núi chúng ta không phải có một ruộng lúa sao?

Vương Bạc cười khổ:

- Đây là chuyện thứ hai ta muốn nói. Trương Tu Đà dẫn quân chủ lực đến bao vây diệt trừ chúng ta, mắt thấy ruộng lúa đã chín đều bị chúng thu hoạch mất.

- Cái gì?

Mạnh Nhượng xiết chặt nắm tay, hận tới mắt muốn phụt lửa, mấy trăm mẫu lúa dưới chân núi là bọn chúng vất vả chiếm lấy, mắt thấy đã chín rồi, lại bị Trương Tu Đà cướp mất.

- Đại ca không phải có thám tử ở huyện Lịch Thành sao? Sao không nhận được tin tức từ sớm?

- Trương Tu Đà nửa đêm ra khỏi thành, thám tử nhận được tin thì đã muộn.

Vương Bạc chậm rãi nghiến răng:

- Huyện Lịch Thành tổng cộng chỉ có bốn ngàn năm trăm quân binh, Trương Tu Đà dẫn theo bốn ngàn người, huyện Lịch Thành đó tất nhiên trống tuếch, không bằng chúng ta phản công huyện Lịch Thành, cho dù không đánh hạ được cả tòa thành trì thì hơn vạn mẫu lúa ngoài thành chúng ta vẫn có thể cướp lại được.

- Nhưng ta lo đây là kế điều binh của Trương Tu Đà.

- Có thể khẳng định đây là kế của lão sao?

Mạnh Nhượng lắc đầu:

- Ta chỉ là lo lắng!

Vương Bạc hơi thở dài:

- Ta cũng biết sẽ có nguy hiểm, nhưng chúng ta chỉ còn lương thực cho hai ngày, làm sao bây giờ?


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.