Cửa Minh Đức thành Trường An, một gã kỵ sĩ áo đen đang lao tới như bay, mắt nhìn thấy cửa thành cũng không có chút ý định giảm tốc độ nào, thậm chí gã kỵ sĩ này còn giục chiến mã tăng tốc. Loại tình huống này chỉ xảy ra khi có khoái báo khẩn cấp ngoài tám trăm dặm. Những người chuyên môn làm nhiệm vụ truyền tin thế này có quần áo rất bắt mắt, còn có thể hô to, “Quân tình khẩn cấp ngoài tám trăm dặm!”
Mà gã kỵ sĩ trước mặt này lại rõ ràng không phải là người như vậy. Binh lính thủ thành giận dữ, gã Giáo úy cầm đầu dẫn theo chục binh lính cầm mâu xông tới:
- Dừng lại!
Gã Giáo úy lớn tiếng rống lên giận dữ.
Kỵ sĩ thoáng giảm tốc độ, cho tay vào ngực lấy ra một tấm lệnh bài, giơ nhoáng lên một cái, hừ lạnh một tiếng:
- Dọa mắt chó của ngươi!
Giáo úy sợ tới mức giật nảy mình, cuống quýt tay chân, sau đó hướng đến chỗ cửa thành hô:
- Tránh ra, để hắn qua!
Bọn lính đều tránh ra, kỵ sĩ lại giục chiến mã tăng tốc, như gió bay chớp giật vọt vào bên trong thành, rất nhanh đã biến mất không thấy bóng dáng. Lúc này, một tên binh lính mới thấp giọng hỏi Giáo úy:
- Đội trưởng, đây là Hoàng thân nào mà kiêu ngạo như vậy?
- Hừ! Hoàng thân thì ta đã không sợ!
Giáo úy cười lạnh một tiếng, nghĩ lại ký hiệu trên tấm lệnh bài bằng đồng kia, y lại không có lo lắng mà chỉ cảm thấy sợ hãi nói:
- Là Đường Phong!
- Đường Phong?
Binh lính bên cạnh sợ tới mức líu hết cả lưỡi. Đây là Tình báo đường vô cùng tàn nhẫn của triều Đường, quyền lực khôn cùng. Chỉ cần một câu nói ngươi là gián điệp triều Tùy là lập tức bắt lại, sau đó chết thế nào cũng không biết, tuyệt đối không được trêu vào!
Kỵ sĩ Đường Phong vọt qua cửa Minh Đức, giục ngựa chạy như bay trên đường Chu Tước, nhằm thẳng hướng phủ Tần Vương mà lao đến…
Ở phủ Tần Vương, Lý Thế Dân đang cùng Chủ mưu sĩ Phòng Huyền Linh và Trưởng sử Trưởng Tôn Thuận Đức thảo luận việc mở rộng Đường Phong. Mấy tháng nay, triều Đường mộ binh ở khắp nơi, chiêu mộ được hơn một trăm ngàn người khiến cho binh lực của triều Đường khôi phục lại con số ba trăm ngàn. Vừa rồi Lý Thân Dân cũng chiêu mộ được tám mươi ngàn người, giao cho đám người Đoạn Hoằng Chí, Ân Khai Sơn, Lưu Hoằng Cơ huấn luyện, đã huấn luyện được hai ba tháng.
Tuy rằng binh lực gia tăng nhưng hai tháng nay, tâm tình của Lý Thế Dân cũng không tốt, nguyên nhân là vì Phụ hoàng nhất định không chấp thuận đề nghị tấn công Tiêu Tiển của y. Bởi vì Lý Mật phái Đơn Hùng Tín dẫn một trăm ngàn đại quân tiến về phía tây đánh Tiêu Tiển, mà Tiêu Tiển lại liên hợp với Đỗ Phục Uy chống lại quân Ngụy ở quận Cửu Giang.
Lúc này, sau lưng Tiêu Tiển hoàn toàn bỏ trống, hoàn toàn có thể nhân cơ hội này cướp lấy quận Dự Chương và quận Bà Dương. Lý Thế Dân cực lực khuyên bảo Phụ hoàng xuất binh, nhưng Thái tử Lý Kiến Thành lại nói năm nay là năm thiên tai, phải suy nghĩ đến gánh nặng của dân chúng. Tiêu Tiển chỉ là con ba ba trong hũ, sớm muộn gì cũng là vật trong túi, khuyên bảo Phụ hoàng không cần xuất binh, đề phòng quân Tùy xuôi nam.
Cuối cùng quân Lý Mật chưa quen thủy chiến, bị liên quân Tiêu - Đỗ đánh bại, chết mấy chục ngàn người phải lui về Giang Đô, còn Tiêu Tiển lui quân về đóng ở quận Bà Dương và quận Dự Chương, khiến cho cơ hội này cứ thế mất đi. Mà lúc này bọn họ mới nhận được tình báo, hóa ra Dương Nguyên Khánh tấn công Thanh Châu là giả, hắn tự mình dẫn quân đi đánh Triều Tiên, đoạt lấy lương thực và vật tư.
Tin tức này khiến cho Lý Thế Dân cực kỳ phẫn hận nhưng lại không thể làm gì. Phẫn hận cũng vô dụng. Nhưng không ngờ, Thái tử Kiến Thành lại nhân cơ hội này cáo buộc tội trạng của Đường Phong, nói bọn họ không kịp thời do thám, nắm bắt tin tức tình báo Dương Nguyên Khánh thân chinh Triều Tiên, làm chậm trễ quân cơ đại sự, khiến Lý Thế Dân bị Phụ hoàng hung hăng trắch mắng một trận.
Phòng Huyền Linh vuốt râu nói:
- Kỳ thật ta nghĩ Đường Phong ở Thái Nguyên đúng là có chút bất lực. Chủ yếu là không thu mua được quan viên trung tâm, một số tình báo trọng yếu không lấy được. Ta cảm thấy cũng không nhất định phải mở rộng Đường Phong, mà nên phái một người đắc lực hơn đến chủ trì Thái Nguyên. Năng lực của Lý Thủ Trọng vẫn hơi kém một chút.
Trưởng Tôn Vô Kỵ là chủ quản Đường Phong, y là người quen thuộc với tình huống của Đường Phong nhất. Y cũng gật đầu nói:
- Tiên sinh nói rất có đạo lý. Đúng là năng lực của Lý Thủ Trọng hơi yếu một chút, không thể thu mua đến quan viên trung tâm. Lần này có cơ hội Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, không ngờ y lại cứ thể bỏ qua. Ta cũng rất tức giận. Ta đồng ý thay người khác.
Lý Thế Dân trầm tư, thật lâu sau mới nói:
- Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, ít nhất cũng phải mất mấy tháng, hẳn là còn cơ hội. Lý Trọng Thủ ở Thái Nguyên đã lâu, tương đối quen thuộc tình huống. Nếu bây giờ đổi người, đợi sau khi người mới quen với tình huống, chỉ sợ lúc đó đến cơ hội cũng không có. Chúng ta có thể đốc thúc Lý Thủ Trọng không tiếc tiền vốn, lôi kéo quan viên có thực lực của triều Tùy, nắm giữ tin tức nội bộ của triều Tùy. Ta cảm thấy nên cho y một cơ hội.
- Điện hạ nói cũng đúng. Cho y thêm một cơ hội cũng không sao, chỉ có điều hy vọng Lý Thủ Trọng này không phụ sự kỳ vọng của Điện hạ.
Đang thương lượng, ngoài cửa bỗng xuất hiện một gã thị vệ:
- Khởi bẩm Tần Vương Điện hạ, Thái Nguyên Đường Phong có tình báo khẩn cấp!
Vừa nhắc đến Đường Phong, Đường Phong liền tới. Lý Thế Dân gật đầu:
- Cho y vào!
Thị vệ dẫn theo kỵ sĩ áo đen bước nhanh vào trong sảnh. Kỵ sĩ áo đen quỳ một gối, ôm quyền hướng Lý Thế Dân thi lễ:
- Ty chức Cảnh Tung, phụng lệnh Lý Đường chủ truyền tin đến Điện hạ.
Thị vệ bê một cái khay hồng, đem một phong thư và một túi tiền màu đỏ trình lên. Lý Thế Dân liếc qua túi tiền đỏ, nhặt phong thư lên trước. Y rút lá thư bên trong ra, run rẩy mở ra đọc vội một lần.
Trong thư nói triều Tùy phát hành một loại ngân tiền mới, hiện giờ loại tiền này trên thị trường rất nóng, mỗi người sau khi đoạt được đều đem cất giữ, căn bản là không lưu thông loại tiền này trên thị trường. Lý Thủ Trọng suy đoán, đây chỉ là lần thử nghiệm của triều Tùy, chắc chắn sau này sẽ triển khai phát hành quy mô lớn.
Ở cuối thư lại bổ sung một tin tình báo, không lâu trước đó, một đội tàu hơn trăm chiếc kéo đến Thái Nguyên, trên đội tàu chở rất nhiều nén bạc lớn, một khối bạc nén có trọng lượng hơn ba mươi cân.
Tin tình báo này khiến Lý Thế Dân hít vào một ngụm khí lạnh. Triều Tùy lại triển khai phát hành ngân tiền trên quy mô lớn. Y đưa lá thư trong tay cho Phòng Huyền Linh:
- Tiên sinh xem đi! Chỉ sợ không ổn rồi!
Phòng Huyền Linh nhận lấy lá thư, vội vàng đọc qua một lần, chân mày cau lại. Lúc này, ánh mắt Lý Thế Dân dừng lại ở túi tiền đỏ trên cái khay. Y nhặt túi tiền lên, giũ từ trong túi ra một chồng ngân tiền, có khoảng hai chục miếng, kích thước giống với tiền mới của triều Tùy nhưng dày hơn. Đây là loại ngân tiền mới của triều Tùy đang rất được quan tâm trên thị trường sao?
Lý Thế Dân nhặt một miếng ngân tiền lên, cẩn thận dùng ngón trỏ và ngón cái nắm ở bên cạnh miếng tiền, sau đó giơ lên cao, hướng về phía ánh sáng, híp mắt đánh giá miếng ngân tiền này. Gia công kỹ càng tỷ mỉ, bề mặt nhẵn nhụi, ở giữa có lỗ để xỏ dây, mặt trên khắc nổi bốn chữ “Nguyên hòa thông bảo”. Mặt trái là một chữ “ngân”, giống với tiền đồng của triều Tùy. Nhóm tiền đồng thứ hai của triều Tùy khi được đưa ra thị trường, thống nhất đổi thành “Nguyên hòa thông bảo” rồi, không còn gọi là ngũ thù tiền.
Phòng Huyền Linh xem xong thư, lại đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ xem, sau đó nghiêm nghị nói với Lý Thế Dân:
- Điện hạ, chuyện này không phải nhỏ. Nếu triều Tùy có được lượng lớn vàng bạc, lại bắt đầu dùng bạc làm tiền, cái này chắc chắn sẽ đoạt lấy của cải trong thiên hạ. Nếu không thay đổi được chuyện này, chỉ sợ hai ba năm nữa, chắc chắn là Tùy mạnh Đường yếu. Đại Đường nguy rồi!
Lúc này Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng đã đọc xong thư, nhướng mày nói:
- Chúng ta có thể nghiêm cấm sử dụng loại ngân tiền này ở Đại Đường, cũng có thể đoạn tuyệt mậu dịch với triều Tùy, có lẽ có thể tránh được loại nguy cơ này.
- Vô dụng thôi!
Phòng Huyền Linh lắc đầu. Y đem một miếng ngân tiền đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ:
- Loại ngân tiền này vừa nhìn liền biết là vật thượng hạng, chứa chín phần bạc trở lên. Cho dù chúng ta cấm lưu thông ngân tiền, nhưng thương nhân hoàn toàn có thể nung chảy lấy bạc, thậm chí triều Tùy cơ bản cũng không cần sử dụng ngân tiền, trực tiếp sử dụng bạc khối. Nhiều nhất chúng ta cũng chỉ có thể cấm đưa vật tư Quan Trung ra ngoài, hoàn toàn không thể kiềm chế vật tư ở Ba Thục, Kinh Tưởng chảy ra ngoài. Còn có trà gạo, gấm vóc Giang Nam. Nhất định sẽ có một lượng lớn chảy về phía triều Tùy. Trưởng Tôn Trưởng sử, hẳn là ngươi hiểu được điểm này. Loại ngân tiền này sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Đại Đường tăng vọt, ca thán khắp nơi. Giống như giá hàng hóa tăng vọt vào đầu năm đó.
Kỳ thật không cần Phòng Huyền Linh phân tích, Lý Thế Dân cũng hiểu được loại ngân tiền này mang đến cho Đại Đường một nguy cơ thế nào. Trong lòng y vô cùng lo lắng, không kìm được cất giọng đầy căm hận:
- Đây là hậu quả của việc Hội Ninh bị thất thủ. Hiện tại có thể thấy, nếu như không ngăn chuyện này lại, Đại Đường sẽ bị hủy trên cái đồng bạc nho nhỏ này.
Phòng Huyền Linh lại chậm rãi nói:
- Điện hạ, vi thần có ba kế sách, có lẽ có thể tránh được mối nguy cơ này.
Lý Thế Dân mừng rỡ, vội vàng nói:
- Tiên sinh mời nói!
- Điện hạ, đầu tiên là phải tính “phá”. Phá hủy ngân tiền của triều Tùy. Chúng ta không ngại sử dụng đồng trắng chế thành ngân tiền của triều Tùy. Vàng thau lẫn lộn, khiến người Tùy không dám tin vào ngân tiền, không dám sử dụng ngân tiền.
Đây là độc kế thứ nhất, nhưng không thể công khai, lại không thể kéo dài, chỉ có thể duy trì hiệu quả nhất thời. Lý Thế Dân trầm ngâm một chút, lại hỏi:
- Kế thứ hai là gì?
- Kế thứ hai chính là “tăng”. Kỳ thật cũng chính là chúng ta lấy bạc trắng làm tiền, đối kháng với ngân tiền của triều Tùy. Đương nhiên, để làm được việc này cần có một lượng lớn bạc trắng, điều này cũng chính là chỗ khó xử của chúng ta.
Lý Thế Dân cười khổ một tiếng. Nếu như có được mỏ bạc thì cũng đã sớm ra tay rồi. Sau khi mỏ bạc ở Hội Ninh bị đoạt mất, bọn họ cũng luôn tìm kiếm mỏ bạc khác, nhưng cũng chỉ tìm được vài cái quặng nhỏ, ngoài ra cũng không có thu hoạch gì. Y thở dài nói:
- Tiên sinh nói kế thứ ba đi!
Ánh mắt Phòng Huyền Linh trở nên lạnh lùng, thản nhiên nói:
- Kế thứ ba chính là “tuyệt”. Nếu kế thứ nhất và kế thứ hai đều không thể thực hiện được, vậy thì chỉ còn cách cuối cùng. Chắc Điện hạ cũng hiểu được ý của ta.
Lý Thế Dân chậm rãi gật đầu:
- Ta hiểu. Bây giờ ta vào cung gặp phụ hoàng. Việc này vô cùng trọng đại, không thể chậm trễ dù là một khắc.
Trong điện Võ Đức cung Thái Cực, Hoàng đế Lý Uyên đang tiếp kiến sứ giả Đột Quyết. Lần này Đột Quyết phái ra hai nhóm sứ giả, một đi Thái Nguyên, một đến Trường An. Hiệt Lợi Khả Hãn là người vô cùng thủ đoạn, y muốn lợi dụng sự tranh đoạt giữa Tùy Đường để tranh thủ lợi ích lớn nhất cho Đột Quyết.
Sứ giả đến Trường An tên là Mặc Diên Trác, y cũng là Thứ Tướng quốc Đột Quyết, phụng lệnh Hiệt Lợi Khả Hãn tới Trường An, hy vọng có thể hoàn thành ba việc, một là kết minh, hai là mậu dịch, ba là kết thân.
Trong Thiên điện của Điện Võ Đức, Lý Uyên ngồi trên long tháp (cái sập), vẻ mặt tươi cười. Sứ giả Đột Quyết thì ngồi ở dưới, vẻ mặt cung kính. Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc đều ngồi ở phía đối diện.
Kết minh với triều Đường là một sự nhượng bộ của Đột Quyết. Lúc đầu, mối quan hệ của triều Đường và Đột Quyết là triều Đường thần phục Đột Quyết. Mà ý nghĩa của việc kết minh chính là hủy bỏ loại quan hệ thần phục này, địa vị trở thành bình đẳng.
Hiệt Lợi Khả Hãn là một người cực kỳ thiết thực. Y không cần cái loại thần phục không có chút ý nghĩa này, cái y muốn chính là lợi ích thiết thực, triều Đường phải bán sắt thô cho Đột Quyết.
Còn việc kết thân lại là dệt hoa trên gấm, là việc sau khi đạt thành hiệp định kết minh và mậu dịch, là cử động để tăng thêm sự hòa hợp trong quan hệ giữa hai bên. Có điều, Hiệt Lợi Khả Hãn đã cưới Công chúa Hiệt Dát Tư là Khả Đôn, cho nên y chỉ có thể lấy con gái của tôn thất triều Đường là Trắc Phi mà không thể cưới Công chúa.
Nhưng đối với Đại Đường mà nói, kết minh là việc rất quan trọng, là điều kiện để Đại Đường thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của việc thần phục Đột Quyết lúc đầu. Chuyện này đã sớm truyền khắp thiên hạ, vẫn còn bị rất nhiều người lên án. Lần kết minh này rất quan trọng đối với sự nóng lòng gìn giữ hình tượng chính thống của Đại Đường của Lý Uyên.
- Với việc Đại Đường và Đột Quyết kết thành liên minh, trẫm rất cao hứng, cũng đồng ý đem nhi nữ tôn thất gả cho Khả Hãn Đột Quyết làm phi. Về phần mậu dịch, ta cần phải thảo luận lại với các đại thần, sẽ sớm có câu trả lời cho quý sứ.
Tuy rằng Mặc Diên Trác tỏ vẻ rất cung kính, có thể nói Hán ngữ khá lưu loát, nhưng ngữ khí của y lại hết sức kiên quyết:
- Đại Đường Hoàng đế Bệ hạ tôn kính, ta đại biểu Khả Hãn vạn phần cảm kích thành ý của Hoàng đế Bệ hạ. Nhưng ta cũng xin nhắc lại một cách thân mật với Bệ hạ, mậu dịch là điều kiện tiên quyết của việc kết minh và kết thân. Hi vọng Bệ hạ có thể càng thêm coi trọng việc mậu dịch để quan hệ giữa song phương cùng có lợi…