[Dịch] Thiên Hạ Kiêu Hùng

Quyển 11-Chương 45 : Viện quân đã đến




Hai trăm thân vệ canh giữ tại cửa thành Lục Hợp, Dương Nguyên Khánh một mình bước vào tòa thành Lục Hợp giống như mê cung này. Hắn từng nghe nói, bố cục trong thành Lục Hợp thực ra là một trận đồ bát quái cực lớn, ở trung tâm là điện Lục Hợp để cử hành hội nghị quân quốc.

Hắn bước trên một lối đi nhỏ và dài, hành lang này gọi là “Hồi long đạo”, uốn thành một vòng bao quanh thành Lục Hợp. Ngự thư phòng của Dương Quảng ở ngay phía bắc, bốn bề yên tĩnh lạ thường, chỉ có tiếng ken két của ván gỗ vang lên theo từng bước chân. Từng luồng sáng chiếu qua khung cửa sổ khiến hành lang sáng sủa hẳn lên, có thể thấy được những hạt bụi li ti lơ lửng trong ánh sáng.

Hắn đã bước trên lối đi này nhiều lần. Đi đến phía bắc, hắn cứ tự nhiên mà xoay người bước vào một lối đi khác. Trong chốc lát trước mắt tối sầm lại, trên bức tường hai bên hẳn là có đèn, nhưng lúc này đèn dầu đã cháy rụi. Gian phòng ở hai bên đều là thư phòng của Dương Quảng, bên trong có hơn ba mươi bảy ngàn cuốn ngự thư do Dương Quảng tự mình chủ trì biên soạn. Dương Nguyên Khánh đi thẳng vào trong cùng, cửa lớn vẫn đóng chặt. Hắn nhìn lướt qua hai bên, ở góc tường cạnh cửa có một bàn đạp nhỏ bằng đồng, hắn nhấc chân lên đạp xuống.

Cửa chậm rãi mở ra. Trong cửa là hai tấm màn gấm, hai tiên nữ được điêu khắc bằng ngọc thạch đang từ từ hạ xuống, tấm màn tự động mở ra về hai bên, đây chính là ngự thư phòng của Dương Quảng. Bốn cánh cửa sổ đều từ từ mở ra, ánh sáng mặt trời rọi một mảng lớn vào bên trong, gió mát xông vào mặt, trong phòng trở nên sáng sủa và mát mẻ.

Dương Nguyên Khánh bước vào ngự thư phòng của Dương Quảng. Tấu sớ trên bàn vẫn trải ra, nhưng bút son đã mất dạng, chỉ còn lại một giá bút thủy mặc bằng phỉ thúy. Bên ngự án (bàn của vua), binh phù cùng hộp đựng kim bài không còn nữa. Tuy Dương Quảng vội vàng chạy trốn, song vẫn không hề vứt bỏ những vật quan trọng này .

Dương Nguyên Khánh chăm chú nhìn ngự án hồi lâu rồi chậm rãi ngồi xuống ngự thạp (giường nhỏ của vua) của Dương Quảng. Hắn cầm lên tấu sớ mà y vẫn chưa xem hết, là của Thông Thủ Vương Thế Sung ở Giang Đô, Lưu Nguyên Tiến ở Giang Nam đại bại, là tấu sớ mừng công chém chết hơn năm mươi ngàn loạn phỉ.

Đúng lúc này, một tiếng “leng keng” mơ hồ truyền đến từ xa, là âm thanh của chén bát rơi xuống đất, nghe cực kỳ rõ ràng trong thành Lục Hợp yên tĩnh. Dương Nguyên Khánh bất chợt đứng dậy, nhanh chân bước ra ngoài ngự thư phòng, không ngờ trong thành Lục Hợp này vẫn có người.

Hắn nhanh chân ra khỏi ngự thư phòng, giẫm lên bàn đạp ở một bên cửa, cửa sổ và màn lại từ từ khép kín, tất cả trở lại như cũ. Hắn nghe thấy rất rõ ràng, hẳn là khoảng hơn mười bước về bên trái. Dương Nguyên Khánh rút đao ra, đi nhanh trên hành lang uốn vòng trong bóng tối, giày da giẫm lên sàn gỗ phát ra tiếng kêu “Ken két!”.

Lúc này, Dương Nguyên Khánh mạnh mẽ quay đầu lại. Sau lưng là một cánh cửa nhỏ, hắn nghe rõ toàn bộ âm thanh vọng lại từ sau cửa, hắn đẩy cửa bước vào. Đây là phòng chuẩn bị đồ ăn, món ăn, rượu thịt cùng điểm tâm mà ngự trù đã làm xong tạm thời để ở đây, sau đó đợi đến khi dùng bữa mới bưng đi.

Dương Nguyên Khánh lạnh lùng quét mắt qua gian phòng. Một cái đĩa rơi trên mặt đất, mười mấy miếng bánh ngọt đều lăn ra trên đất. Dương Nguyên Khánh chợt bước nhanh hai bước, lôi ra một thân hình nhỏ gầy từ trong một góc tối.

Trong phòng nhất thời vang lên tiếng thét thê thảm mà sợ hãi của một cô bé:

- Tha cho tôi đi! Đừng ăn tôi mà!

Dương Nguyên Khánh đã thấy rõ ràng, là một tiểu cung nữ, nhiều nhất khoảng mười một, mười hai tuổi, nhỏ gầy giống như mèo. Hắn thả cô bé ra, tiểu cung nữ quỳ trước mặt hắn liên tục dập đầu cầu xin:

- Đại gia Đột Quyết, tha cho tôi đi! Đừng ăn thịt tôi!

Dương Nguyên Khánh thấy toàn thân cô bé run rẩy, có thể hiểu được nỗi sợ trong nội tâm của cô. Hắn có chút không đành lòng, liền dịu giọng nói:

- Cô không cần sợ, ta là tướng Tùy, không phải người Đột Quyết.

Cung nữ chầm chậm ngẩng đầu. Cô cũng thấy rõ trước mắt quả thực là một viên tướng Tùy, không phải là những tên giống như ác quỷ kia, những tên sĩ binh Đột Quyết ăn thịt người. Lòng cô trở nên nhẹ nhõm, song lại lập tức ngất đi.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu. Những cung nữ này sống trong thâm cung, chưa từng gặp qua người Đột Quyết, liền tưởng tượng bọn chúng giống như ác quỷ ăn thịt người, tiểu cung nữ thế này lại càng tin tưởng hơn.

Hắn ngồi xổm xuống, nhéo vài cái vào tai của cô bé. Tiểu cung nữ dần dần tỉnh lại, Dương Nguyên Khánh dịu giọng hỏi cô:

- Cô tên gì, sao lại trốn trong thành Lục Hợp mà không chạy đi?

Giọng nói dịu dàng của Dương Nguyên Khánh khiến tiểu cung nữ dần lấy lại bình tĩnh từ cơn sợ hãi, cô rụt rè nói:

- Tên tôi là Ngọc Nhi, là tiểu tỳ hầu hạ Công chúa. Ngày đó tôi bưng điểm tâm đến cho Công chúa, đột nhiên nghe nói người Đột Quyết đã giết đến đây rồi. Mọi người đều chạy trốn, tôi cũng muốn chạy nhưng lại không thể mở được cửa. Tôi sợ lắm, cứ thế mà trốn trong phòng.

- Cô hầu hạ Công chúa nào?

- Đan Dương Công chúa.

Dương Nguyên Khánh đã nhớ ra. Nhiều năm trước hắn đã từng thấy qua một lần, là một tiểu Công chúa rất đáng yêu.

Dương Nguyên Khánh đứng dậy, lại nhìn một vòng quanh phòng. Những đồ vật hầu như chưa từng được động tới, lại hỏi cô bé:

- Cô luôn trốn ở đây sao?

- Vâng!

Cung nữ khiếp đảm nói:

- Tôi đã ăn hai mâm điểm tâm, uống một chén trà, lại ăn thêm hai trái lê, những thứ khác chưa từng đụng đến. Vừa nãy nghe thấy tiếng bước chân, nghĩ rằng dù chết cũng phải ăn cho no, kết quả lại làm rơi chén dĩa.

Dương Nguyên Khánh nhặt một trái lê đưa cho cô bé:

- Ăn nó rồi đi theo ta.

Dương Nguyên Khánh đứng dậy bước ra ngoài. Tiểu cung nữ ngậm lấy trái lê chạy chậm theo Dương Nguyên Khánh. Cô bé quả thực rất sợ người Đột Quyết, viên tướng Tùy trước mắt này trở thành hy vọng cứu sống của cô bé.

Dương Nguyên Khánh ra khỏi thành Lục Hợp, lập tức ra lệnh:

- Khóa lại cửa lớn, không cho bất kỳ ai tiến vào.

Hắn lại chỉ vào tiểu cung nữ, nói với hai thân binh:

- Tìm một xe ngựa đưa cô bé về huyện Hà Dương, giao cho Vi Huyện lệnh. Đúng rồi, nấu cho cô bé một tô cháo.

Cung nữ cảm kích trong lòng, thi lễ với Dương Nguyên Khánh:

- Đa tạ ơn cứu mạng của tướng quân!

Dương Nguyên Khánh cười cười:

- Yên tâm đi! Đợi ta cứu được công chúa, sẽ để cho hai người đoàn tụ.

Một chiếc xe ngựa nhanh chóng tiến đến, hai thân binh hộ tống tiểu cung nữ đến huyện Hà Dương. Dương Nguyên Khánh cưỡi ngựa tiến vào thành Du Lâm, hắn để lại ba ngàn người giữ thành. Hai canh giờ sau, đại quân chuyển ngược về hướng nam, chạy nhanh về phía quận Nhạn Môn.

Cuộc tấn công phòng ngự ở thành Nhạn Môn cực kỳ thảm thiết, hai bên đều đầu nhập vào trọng quân, liên tiếp tấn công phòng thủ nhiều ngày đêm.

Cuộc chiến đã bước sang ngày thứ sáu, quân Đột Quyết trước sau đã đầu nhập hai trăm ngàn đại quân tấn công thành Nhạn Môn, tử thương vượt quá sáu mươi ngàn người. Mà quân Tùy trước sau cũng đầu nhập tám mươi ngàn đại quân giữ thành, tử thương gần hơn ba mươi ngàn người, song thành Nhạn Môn thủy chung vẫn chưa bị đánh bại.

“Tùng! Tùng! Tùng!”

Tiếng trống tấn công vang dội ngoài thành Nhạn Môn, quân Đột Quyết mang theo hơn trăm chiếc thang công thành xông đến thành Nhạn Môn từ bốn phía như triều cường. Từng mũi tên dệt thành tấm lưới giăng trên không trung, không thể phân rõ trên và dưới thành, tiếng hét chém giết liên tục vang lên. Quân Đột Quyết đội tấm chắn trên đầu, dựng từng chiếc thang công thành dựa vào tường thành, điên cuồng tập kích lên phía trên.

Trên đầu thành tử thi phơi khắp nơi. Hai mươi ngàn sĩ binh quân Tùy vẫn liều chết chống cự, lời hứa cùng phong thưởng của Hoàng đế Dương Quảng đã tạo dũng khí cực lớn cho các sĩ binh. Sĩ khí của bọn họ tăng cao, trải qua mấy ngày chiến đấu liên tiếp trong mùi máu tanh, bọn họ đã dần dần hiểu ra cách đối phó với người Đột Quyết.

Người Đột Quyết luân phiên tiến công, duy trì thể lực. Quân Tùy cũng luân phiên phòng ngự, duy trì thể lực. Người Đột Quyết đầu nhập bốn mươi ngàn quân tiến công, bọn họ liền đầu nhập hai mươi ngàn quân phòng ngự. Mưa tên của Đột Quyết khiến bọn họ không cách nào tiếp cận tường thành phản kích. Bọn họ đứng cách bên thành một trượng, giương cung bắn xuống. Hơn nữa ngoài thang công thành ra, người Đột Quyết không hề có vũ khí công thành nào khác, quân Tùy đã tìm ra biện pháp phá giải nó.

Một tiếng vang “Ầm!” thật lớn. Một chiếc thang công thành cực to rộng khoảng ba thước dựng vào đầu thành, những móc câu bằng sắt thô to móc vào tường thành, mấy trăm sĩ binh Đột Quyết điên cuồng leo lên trên.

Sĩ binh quân Tùy ném gỗ và đá xuống dưới, sĩ binh Đột Quyết kêu la thảm thiết rơi xuống đất cùng với gỗ và đá.

Hai gã quân Tùy có dáng người khôi ngô giơ đại chùy lên mạnh mẽ đập vỡ hai bên thang công thành. Thuận theo tiếng ken két chói tai khi móc sắt lia qua tường thành, chiếc thang dần dần mở rộng, đinh gỗ bung ra từ trong giá thang ở hai nấc thang trên cùng, khiến cho thang công thành mất đi hai nấc, không cách nào leo lên đầu thành. Dưới sự phản kích mãnh liệt của quân Tùy, quân Đột Quyết lũ lượt ngã nhào ra khỏi thang.

Nhưng quân Đột Quyết có đối sách rất nhanh. Bọn chúng dùng gang để cố định thanh ngang của chiếc thang, làm mất đi hiệu quả chùy đập của quân Tùy. Nhưng quân Tùy lại phát minh ra cây xiên lớn bằng sắt, đập cong móc sắt. Mười mấy sĩ binh dùng xiên lớn đẩy mạnh về phía chiếc thang, chiếc thang bật khỏi đầu thành ngã xuống đất.

Hai bên không ngừng tiến hành cuộc chiến đẫm máu với việc sử dụng hàng loạt thủ đoạn công thành và phản kích. Đúng lúc này, tiếng trống của quân Đột Quyết trầm lại và từ tốn. “Tùng – Tùng – Tùng!”, mỗi một lần hạ chùy đều khiến lòng người phát run.

- Tướng quân mau nhìn xem!

Một sĩ binh sợ hãi hô to chỉ về phía xa.

Tất cả sĩ binh quân Tùy đều ngây ra, chầm chậm đứng dậy, kinh sợ trông về phía xa. Vũ Văn Thành Đô cũng đã thấy, hơn mười vật khổng lồ xuất hiện ở phía xa.

Đó chính là sào xa (binh khí Trung Quốc cổ đại, là một loại xe có lầu cao để quan sát tình hình địch từ xa). Mỗi tòa sào xa được kéo đi bởi mấy trăm con ngựa, chậm rãi tiến về phía tường thành, giống hệt như quái thú khổng lồ. Vũ Văn Thành Đô ngoảnh đầu hô to:

- Giương sàng nỏ!

Vũ khí thủ thành cỡ lớn của quân Tùy chỉ có sàng nỏ, tên lớn dài ba trượng, tầm bắn có thể đạt đến hơn một ngàn năm trăm thước, liệu có thể đối phó với những tòa sào xa khổng lồ này hay không? Trong lòng của Vũ Văn Thành Đô vô cùng lo lắng.

Trước đại doanh của Đột Quyết, Thủy Tất Khả Hãn Đốt Cát quan sát cuộc chiến từ xa trong sự vây quanh của mấy trăm viên tướng lĩnh. Trong mắt của Thủy Tất Khả Hãn lóe lên sự bực tức khó mà áp chế, vốn định có thể phá hoại thành Nhạn Môn trong một ngày, thế mà lại đánh đến bảy ngày, song thủy chung vẫn chưa thể công phá thành Nhạn Môn. Y đã phải trả giá cho tử thương của hơn sáu mươi ngàn người, nếu không thể bắt được Dương Quảng trong cuộc chiến ở thành Nhạn Môn, với y mà nói đó là thảm bại.

Lúc này, Tả Sát Đại tướng quân A Sử Na Côn Cát nói với y:

- Khả Hãn, tuy quân Tùy phản kháng kịch liệt, nhưng bọn chúng cũng tử thương nặng nề. Quan trọng hơn là, binh lực của chúng không nhiều như của ta. Chúng ta vẫn còn hơn ba mươi ngàn đại quân mà bọn chúng chỉ còn một nửa. Cứ như thế mà tiêu hao dần, bọn chúng nhất định sẽ bị phá thành vì binh lực đã tận, xin Khả Hãn chớ vội!

Đốt Cát gật đầu. Quả thực là như thế, chỉ cần y không ngừng tấn công, binh lực của quân Tùy tất nhiên sẽ bị diệt sạch.

- Truyền lệnh của ta, tăng thêm hai mươi ngàn quân, phối hợp với sào xa công thành!

Y vừa phát lệnh, một tên kỵ binh tuần tra từ xa phóng nhanh đến, hô to:

- Khả Hãn, đại sự không ổn rồi!

- Có chuyện gì?

Đốt Cát giận dữ nói.

- Khả Hãn, Dương Nguyên Khánh dẫn theo năm mươi ngàn đại quân đã công phá thành Du Lâm, năm ngàn thủ quân đã bị giết sạch. Đại quân của Dương Nguyên Khánh đang tiến về quận Nhạn Môn, chỉ còn cách một trăm dặm.

- Cái gì?

Đốt Cát kinh ngạc trợn tròn mắt.

- Còn nữa, một nhánh quân Tùy hơn ngàn người đang tiến về phía chúng ta. Quân tuần tra không thể chống lại bọn chúng, xin Khả Hãn xuất binh chặn lại.

Vừa dứt lời, tiếng kèn lệnh trầm thấp vang lên từ xa, quanh quẩn trên khoảng không của thành Nhạn Môn. Một lá cờ lớn thêu hình chim ưng màu đỏ, một đội kỵ binh quân Tùy đột nhiên xuất hiện cách đại doanh của Đột Quyết khoảng ba dặm.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.