Chương 8: THE LESSER EVIL 1
Như mọi khi, mèo và trẻ con để ý thấy anh đầu tiên. Một con mèo khoang đang nằm ngủ trên một đống củi phơi dưới ánh nắng ấm áp, giật mình tỉnh dậy, ngẩng cái đầu tròn lên, cụp tai lại, rít một tiếng và phóng vào bụi tầm ma. Thằng nhóc Dragomir ba tuổi, con trai của ngư dân Trigla, đang ngồi trên bậu cửa và cố gắng hết mức để làm cái áo đang bẩn lại càng bẩn thêm, bắt đầu hét lên khi trông thấy người kỵ sĩ đang đi qua.
Witcher đi từ tốn, không cố để vượt qua chiếc xe chở rơm đang chiếm mất nửa con đường. Một con lừa nặng cân bước lững thững phía sau anh, vươn cổ ra, và liên tục giật giật sợi dây đang buộc vào yên ngựa của witcher. Ngoài những túi hành lý thông thường, con vật còn phải mang theo một vật hình thù lớn đang bọc trong vải ở trên lưng. Bên sườn của con lừa màu trắng-xám có lẫn những vệt máu khô đã chuyển màu đen.
Chiếc xe cuối cùng cũng rẽ xuống một con phố bên cạnh để hướng tới nhà kho và bến cảng nơi những cơn gió biển tạt qua, mang theo mùi hắc ín và nước đái bò. Geralt tăng tốc. Anh không phản ứng lại với tiếng hét câm lặng của người phụ nữ bán rau đang nhìn chằm chằm vào cái bàn tay xương xẩu đầy móng vuốt thò ra từ bên dưới lớp vải treo trên yên, nhún nhẩy lên xuống theo nhịp di chuyển của con lừa. Anh không nhìn cái đám đông đang lẽo đẽo theo sau anh và xì xào đầy phấn khích.
Như thường lệ, có rất nhiều xe hàng đậu trước cửa nhà thị trưởng. Geralt nhảy xuống, chỉnh lại thanh kiếm sau lưng và buộc dây cương vào cái hàng rào gỗ. Đám đông đằng sau anh tụ tập thành một vòng tròn xung quanh con lừa.
Thậm chí cả ở bên ngoài, tiếng hét của thị trưởng nghe vẫn rất rõ.
“Điều đó bị cấm, ta bảo rồi! Bị cấm, mẹ kiếp! Ngươi không hiểu ta đang nói gì sao, hả đồ vô lại?”
Geralt bước vào. Trước mặt thị trưởng, nhỏ thó, mập mạp và đỏ au vì giận dữ, là một người dân làng đang vất vả giữ lấy cổ một con ngỗng.
“Cái gì – thần linh ơi! Có phải anh đấy không, Geralt? Đôi mắt này có đang đánh lừa tôi không đó?” Và lại quay sang người dân làng: “Đem nó đi đi, đồ con lợn! Điếc à?”
“Họ bảo là,” tay nông dân lắp bắp, nheo mắt nhìn con ngỗng, “là phải cống nạp một chút gì đó cho ông, không thì...”
“Ai bảo?” thị trưởng hét lên. “Ai? Rằng ta nhận hối lộ? Ta không nhận! Biến đi! Xin chào, Geralt!”
“Xin chào, Caldemeyn!”
Thị trưởng siết tay witcher và vỗ lên vai anh. “Anh đã không qua đây được hai năm rồi đó, Geralt. Nhỉ? Anh không bao giờ ở yên một chỗ được lâu, đúng không? Anh từ đâu tới vậy? A, mẹ nó, có khác biệt gì không chứ? Này, ai đó mang cho chúng ta ít bia đi! Ngồi xuống, Geralt, ngồi xuống. Ở đây đang loạn hết cả lên vì ngày mai chúng tôi sẽ họp chợ. Mọi việc với anh thế nào, kể tôi nghe đi!”
“Để sau. Hãy ra ngoài trước đã.”
Đám đông bên ngoài đã nhân lên gấp đôi nhưng khoảng trống xung quanh con lừa vẫn không giảm đi chút nào. Geralt kéo tấm vải trùm ra. Đám đông ồ lên và lùi lại. Miệng Caldemeyn há ra.
“Nhân danh các vị thần, Geralt! Cái gì thế?”
“Một con kikimora. Có phần thưởng nào cho nó không?”
Caldemeyn chuyển từ chân này sang chân kia, nhìn vào cái thân hình giống nhện với lớp da đen khô quắt, con mắt thủy tinh với đồng tử nằm thẳng đứng, những chiếc nanh như kim châm trong cái hàm đẫm máu.
“Từ...từ đâu...?”
“Trên con đê, cách đây chưa đầy bốn dặm. Trong đầm lầy. Caldemeyn, chắc phải có người đã mất tích ở chỗ đó. Trẻ con.”
“À thì, đúng. Nhưng không ai...ai mà đoán được...Này, mọi người, về nhà đi, quay lại làm việc! Đây không phải sô diễn đâu! Che nó lại đi, Geralt. Ruồi đang bâu kìa.”
Quay vào bên trong, thị trưởng cầm lấy một vại bia lớn và uống tới giọt cuối cùng mà không nói lời nào. Ông thở dài một hơi và khịt mũi.
“Không có phần thưởng nào cả,” ông nói u ám. “Chẳng ai lại nghĩ có một thứ như vậy rình rập trong khu đầm lầy. Đúng là có vài người đã mất tích tại những nơi đó, nhưng...hiếm có người lang thang gần con đê. Và tại sao anh lại ở đây? Sao anh không đi đường cái?”
“Trên đường cái tôi khó có thể kiếm sống được, Caldemeyn.”
“Tôi quên mất.” Thị trưởng nén một tiếng ợ, má phồng lên. “Và nơi này từng là một vùng rất thanh bình. Ngay cả quỷ lùn cũng hiếm khi đái vào sữa của phụ nữ. Vậy mà giờ đây, ngay cạnh chúng ta, là một loại ma quỷ nào đó. Tôi nên cảm ơn anh. Bởi vì để trả công cho anh thì tôi không thể. Tôi không có tiền.”
“Thật đáng tiếc. Tôi đang cần một khoản nhỏ để trụ qua mùa đông.” Witcher nhấp một ngụm bia, lau đi lớp bọt. “Tôi đang trên đường tới Yspaden, nhưng tôi không biết liệu có tới kịp trước khi tuyết chắn đường không. Tôi có thể sẽ bị kẹt lại một thị trấn nhỏ nào đấy trên đường Lutonski.”
“Anh có định ở lại Blaviken lâu không?”
“Không. Tôi không thể lãng phí thời gian. Mùa đông sắp đến rồi.”
“Anh định ở đâu đây? Với tôi nhé? Có một phòng trống trên gác xép. Cần gì phải để bản thân bị gạt bởi mấy tay chủ quán trọ, toàn một lũ trộm cắp. Chúng ta sẽ trò chuyện và anh có thể kể tôi nghe về thế giới rộng lớn bên ngoài.”
“Rất sẵn lòng. Nhưng Libushe sẽ nói gì đây? Rõ ràng từ lần trước là bà ấy không có ưa tôi.”
“Phụ nữ không có tiếng nói trong nhà của tôi. Nhưng, chỉ giữa hai ta thôi nhé, đừng làm cái trò mà anh đã làm trong bữa tối lần trước trước mặt bà ấy lần nữa.”
“Ý ông là khi tôi ném cái dĩa vào con chuột đó?”
“Không. Ý tôi là khi anh ném trúng nó, kể cả trong bóng tối.”
“Tôi nghĩ như thế rất ấn tượng.”
“Đúng vậy. Nhưng đừng làm trước mặt Libushe. Và nghe này, cái...nó tên gì nhỉ...kiki...”
“Kikimora.”
“Anh có cần nó để làm gì không?”
“Tôi cần nó để làm gì? Ông cứ việc vứt nó xuống hố phân nếu chẳng có phần thưởng nào cả.”
“Đó không phải một ý tồi đâu. Này, Karelka, Borg, Carrypebble! Có đứa nào ở đó không?”
Một lính gác thị trấn bước vào với cây giáo đang ngả trên vai, lưỡi giáo va phải khung cửa.
“Carrypebble,” Caldemeyn ra lệnh. “Tìm ai đó giúp đi và dắt con lừa với cái đống rác bọc trong vải đó qua chuồng lợn, và vứt con kikimora xuống hố phân. Hiểu chưa?”
“Tuân lệnh. Nhưng...thưa thị trưởng...”
“Cái gì?”
“Có lẽ là trước khi chôn cái thứ ghê tởm đó...”
“Làm sao?”
“Chúng ta có thể đưa nó cho ngài Irion xem. Biết đâu nó lại có ích với ông ấy.”
Caldemeyn vỗ tay lên trán.
“Cậu không ngu tí nào đâu, Carrypebble. Nghe này, Geralt, có thể tay pháp sư trong thị trấn có thể trả cho anh chút gì đó cho cái xác kia. Các ngư dân mang cho ông ta đủ loại cá quái dị - octopedes, clabaters và herrongs – có một số chắc đã kiếm được ít tiền từ việc đó. Đi nào, đến tòa tháp thôi.”
“Ông có một pháp sư ở đây sao? Liệu ông ta ở hẳn hay chỉ đi ngang qua?”
“Ở hẳn luôn. Ngài Irion. Ông ta đã sống ở Blaviken được một năm rồi. Một phù thủy hùng mạnh, Geralt, anh sẽ thấy ngay từ vẻ bề ngoài của ông ta.”
“Tôi không nghĩ là một phù thủy hùng mạnh sẽ trả tiền cho một con kikimora đâu,” Geralt nhăn mặt. “Theo như tôi biết thì nó không phải là thành phần của loại thần dược nào cả. Ngài Irion của ông sẽ chỉ chửi tôi một trận thôi, chắc chắn rồi. Witcher chúng tôi và các pháp sư không ưa nhau cho lắm.”
“Tôi chưa bao giờ nghe ngài Irion sỉ nhục ai cả. Tôi không dám chắc là ông ấy sẽ trả tiền anh, nhưng thử cũng chẳng có hại gì. Có thể còn nhiều con kikimora như vậy nữa ở ngoài đầm lầy, và rồi sao? Hãy để tay pháp sư nhìn qua con quái vật và ếm một bùa chú nào đấy lên khu đầm lầy hay gì đó, đề phòng.”
Witcher suy ngẫm một lát.
“Được rồi, Caldemeyn. Kệ đi, chúng ta sẽ liều thử gặp ngài Irion. Đi thôi chứ?”
“Đi thôi. Carrypebble, đuổi lũ trẻ con đi và mang cái bịt tai ra đây. Mũ của tôi đâu rồi?”
***
Tòa tháp, xây bởi những khối đá granit nhẵn nhụi và lởm chởm tháp canh, trông khá ấn tượng, vượt xa những mái ngói dập nát và lán nhà thủng lỗ chỗ của thị trấn.
“Tôi thấy là ông ta đã tu sửa nó,” Geralt nhận xét. “Bằng thần chú, hay là ông ta nhờ ông làm?”
“Thần chú, chủ yếu là vậy.”
“Ông ta là người như thế nào, cái tay Irion này?”
“Tử tế. Ông ta giúp đỡ mọi người. Nhưng bản thân lại khá cô lập, không nói nhiều lắm. Ông ta hiếm khi rời tòa tháp.”
Trên cánh cửa, được trang trí bởi họa tiết tường vi trên nền gỗ nhạt màu, treo một cái gõ cửa khổng lồ hình đầu một con cá lồi mắt ngậm một chiếc vòng bằng đồng trong khuôn hàm đầy răng. Caldemeyn, rõ ràng là đã quen với cách hoạt động của món đồ này, lại gần, hắng giọng và lên tiếng:
“Thị trưởng Caldemeyn xin được gặp ngài Irion. Cùng với ông ấy là witcher Geralt, cũng xin được diện kiến.”
Trong một khoảng thời gian dài, chẳng có gì xảy ra cả, rồi bất chợt cái đầu cá di chuyển hàm răng lởm chởm và ợ ra một đám hơi nước.
“Ngài Irion không tiếp khách. Xin quý vị hãy rời đi.”
Caldemeyn loay hoay tại chỗ và nhìn Geralt. Witcher nhún vai. Carrypebble ngoái mũi với sự tập trung cao độ.
“Ngài Irion không tiếp khách.” cái gõ cửa lặp lại một cách máy móc. “Xin quý vị hãy...”
“Tôi không phải quý vị,” Geralt lớn tiếng cắt lời. “Tôi là một witcher. Cái thứ ở trên lưng con lừa kia là một con kikimora, và tôi đã giết nó cách đây không xa lắm. Trông coi đến sự an nguy của khu vực xung quanh mình là trách nhiệm của mọi pháp sư trong vùng. Ngài Irion không cần phải nói chuyện với tôi, không cần phải tiếp đãi tôi, nếu đó là ý muốn của ông ấy. Nhưng hãy cứ để ông ấy khám xét con kikimora và tự rút ra kết luận. Carrypebble, tháo con kikimora ra và để nó ở trước cửa.”
“Geralt,” ông thị trưởng nói khẽ. “Anh sẽ đi nhưng tôi thì phải...”
“Về thôi, Caldemeyn. Carrypebble, bỏ ngón tay ra khỏi mũi và làm như tôi bảo đi.”
“Đợi một chút,” cái gõ cửa nói bằng một giọng hoàn toàn khác. “Geralt, có thật sự là anh đấy không?”
Witcher lầm bầm chửi thề.
“Tôi đang mất kiên nhẫn đây. Phải, chính là tôi. Thì sao?”
“Ra trước cửa đi,” cái gõ cửa nói, ợ ra một đám hơi nước nhỏ. “Một mình, tôi sẽ cho anh vào.”
“Vậy còn con kikimora?”
“Kệ mẹ nó. Tôi muốn nói chuyện với anh, Geralt. Chỉ mình anh thôi. Xin thứ lỗi nhé, thị trưởng.”
“Có sao đâu, ngài Irion.” Caldemeyn phẩy tay. “Bảo trọng nhé, Geralt. Chúng ta sẽ gặp lại sau. Carrypebble! Ném con quái vật xuống hố phân đi!”
“Như ngài yêu cầu.”
Witcher lại gần cánh cửa trang trí, mà hé mở một chút – vừa đủ để anh lách người qua – rồi đóng sầm một cái, để anh lại trong bóng tối dày đặc.
“Này!” anh la lên, không che giấu sự bực tức.
“Đợt một phút,” một giọng nói quen đến kỳ lạ đáp lại.
Cảm giác bất ngờ đến nỗi witcher lảo đảo và vươn tay ra, để tìm chỗ bám. Anh không tìm thấy gì hết.
Khu vườn nở rộ với màu tím và hồng, và có mùi mưa. Bầu trời bị chia làm hai bởi một cầu vồng sặc sỡ, nối từ tán những thân cây cho đến rặng núi xanh lục nằm ở phía xa. Ngôi nhà nằm trọn giữa khu vườn, nhỏ và khiêm tốn, chìm trong thục quỳ. Geralt nhìn xuống và nhận ra rằng mình đang ngập đến hông trong một biển húng tây.
“Chà, vào đi Geralt.” Giọng nói lên tiếng. “Tôi đang ở trước nhà.”
Anh tiến vào khu vườn, bước qua những tán cây. Anh để ý thấy một chuyển động phía bên trái và nhìn xung quanh. Một cô gái với mái tóc rạng rỡ, hoàn toàn khỏa thân, đang chạy dọc một hàng cây mang theo một cái giỏ đầy táo. Witcher nghiêm trang tự hứa rằng không gì sẽ làm anh ngạc nhiên được nữa.
“Cuối cùng. Xin chào, witcher.”
“Stregobor!” Geralt ngạc nhiên.
Trong suốt cuộc đời mình, witcher đã từng gặp những tên cướp trông như ủy viên hội đồng, ủy viên hội đồng trông như ăn mày, gái điếm nhìn như công chúa, công chúa nhìn như bò cái và vua chúa giống như trộm cướp. Nhưng Stregobor luôn trông như, theo mọi quan điểm và định kiến, một pháp sư. Ông ta cao, gầy và hơi còng, với cặp lông mày xám vĩ đại rậm rạp và một cái mũi khoằm, dài. Trên hết cả, ông ta còn mặc một chiếc áo choàng đen với cổ tay loe rộng, và cầm một cây trượng có gắn một viên pha lê ở đầu. Geralt chưa từng gặp pháp sư nào nhìn giống Stregobor. Nhưng điều ngạc nhiên nhất chính là Stregobor đích thực là một pháp sư.
Họ ngồi xuống một cái ghế mây đặt cạnh một chiếc bàn cẩm thạch trắng nằm dưới mái hiên trước nhà, bao vây xung quanh là thục quỳ. Cô gái tóc vàng khỏa thân với giỏ táo tiến lại gần, mỉm cười, quay đi, ngoáy hông và trở lại khu vườn.
“Đó cũng là một ảo ảnh à?” Geralt hỏi, nhìn theo cái hông.
“Phải. Như mọi thứ ở đây. Nhưng bạn của tôi à, đó là một ảo ảnh xịn số một đấy. Hoa có mùi thơm, anh có thể ăn được táo, ong có thể đốt được anh, và cô ấy,” người pháp sư ám chỉ tóc vàng, “anh có thể...”
“Có lẽ để sau đi.”
“Khá đúng đấy. Anh đang làm gì ở đây vậy hả, Geralt? Vẫn lang thang ngày này qua tháng khác, đồ sát hết những đại diện cuối cùng của những giống loài sắp tuyệt chủng để kiếm tiền à? Anh kiếm được bao nhiêu với con kikimora kia? Không gì cả, tôi đoán vậy, nếu không thì anh đã chẳng đến đây. Ấy vậy mà có những người còn không tin vào định mệnh. Trừ phi anh biết tôi ở đây. Phải không?”
“Không, tôi không biết. Đây là nơi cuối cùng mà tôi nghĩ có thể tìm thấy ông. Nếu trí nhớ tôi vẫn còn chính xác, ông đã từng sống trong một thị trấn tương tự như này ở Kovir rồi.”
“Rất nhiều thứ đã thay đổi kể từ dạo đó.”
“Như tên của ông chẳng hạn. Có vẻ như giờ ông là ngài Irion rồi.”
“Đó là tên của người đã xây nên tòa tháp này. Ông ta chết khoảng 200 năm về trước, và tôi nghĩ rằng mình nên vinh danh ông ta bằng một cách nào đó nếu như đã trú ngụ nơi đây. Giờ tôi sống ở đây rồi. Đa số dân cư giờ sống dựa vào biển, và như anh biết đấy, chuyên môn của tôi, ngoại trừ ảo ảnh ra, là thời tiết. Đôi lúc tôi làm dịu một cơn bão, đôi lúc gọi lên một cơn bão, đôi lúc đem một đàn cá mối và cá tuyết vào gần bờ hơn bằng gió tây. Tôi sống ổn. Nếu,” ông ta thêm vào một cách khổ sở, “tôi có thể sống được.”
“Sao lại nếu? Ông đổi tên làm gì?”
“Định mệnh mang nhiều khuôn mặt. Của tôi thì đẹp ở bên ngoài và xấu ở bên trong. Cô ta đã vươn mấy cái móng vuốt quái quỷ đó ra với tôi...”
“Ông chẳng thay đổi tí nào cả, Stregobor.” Geralt cau mày. “Ông vẫn cứ nói chuyện khó hiểu trong khi làm mặt thông thái và khôn ngoan. Ông không nói bình thường được à?”
“Tôi có thể,” người pháp sư thở dài. “Tôi có thể nếu anh thích. Tôi đã tới được tận đây, trốn tránh khỏi một con quái vật muốn giết tôi. Xem ra cuộc chạy trốn của tôi là vô nghĩa – nó đã tìm thấy tôi. Khả năng cao là nó sẽ cố giết tôi vào ngày mai, hay muộn nhất là ngày kia.”
“Aha,” witcher bình thản. “Giờ thì tôi hiểu rồi.”
“Việc tôi phải đối mặt với tử thần không làm anh ấn tượng cho lắm nhỉ, phải không?”
“Stregobor,” Geralt lên tiếng, “đó là quy luật của thế giới. Người ta có thể chứng kiến đủ thứ trên con đường du hành. Hai tay nông dân giết nhau vì một mảnh ruộng, mà ngay ngày hôm sau, sẽ bị dẫm nát bởi hai người bá tước và đoàn tùy tùng của họ trong khi cố gắng làm điều tương tự. Đàn ông bị treo cổ bên vệ đường, cướp sát hại thương nhân. Cứ đi mỗi bước trong một thị trấn là vấp phải một xác chết nằm dưới cống. Trong cung điện họ đâm nhau bằng dao, và luôn có người ngã ngửa ra bàn mỗi phút tại một bữa tiệc, mặt xanh lè vì bị đầu độc. Tôi quen rồi. Vậy tại sao một lời đe dọa lại làm tôi ấn tượng được, và nhất là lại nhắm vào ông?”
“Lại nhắm vào tôi.” Stregobor nhắc lại với vẻ mỉa mai. “Và tôi coi anh như một người bạn. Tôi trông đợi vào sự giúp đỡ của anh.”
“Lần cuối cùng chúng ta gặp nhau,” Geralt nói, “ là tại triều đình vua Idi của Kovir. Tôi tới lấy tiền công cho con amphisboena mà đang hoành hành khắp vùng đó. Ông và cái tay đồng đảng Zavist đó của ông tranh nhau gọi tôi là một tên lừa đảo, một cỗ máy giết chóc vô cảm và một kẻ ăn bám. Thành ra không chỉ Idi không thèm trả tôi một xu, ông ta còn gia hạn cho tôi 12 tiếng để biến khỏi Kovir, và vì cái đồng hồ cát của ông ta bị hỏng, tôi chỉ vừa mới kịp thoát ra. Và giờ ông nói trông đợi vào sự giúp đỡ của tôi. Ông nói một con quái vật đang đuổi theo ông. Ông sợ cái gì hả Stregobor? Nếu nó bắt kịp ông, cứ bảo là ông thích quái vật, là ông bảo vệ chúng và đảm bảo không tên witcher ăn bám nào có thể làm phiền chúng được. Quả thật, nếu con quái vật có xé xác và ăn sống ông, nó đúng là vô ơn quá mà.”
Người pháp sư lặng lẽ quay đầu đi. Geralt cười. “Đừng có phồng lên như cóc thế, pháp sư. Kể tôi nghe cái gì đang đe dọa ông đi nào. Rồi chúng ta xem có thể làm được gì.”
“Anh đã từng nghe nói đến Lời nguyền Mặt Trời Đen chưa?”
“Đương nhiên rồi. Ngoại trừ việc nó được gọi là Cơn điên của Eltibald Khùng, đặt theo tên của tay pháp sư đã khởi xướng ra khái niệm này và khiến cho hàng tá các cô gái từ các gia đình tử tế, thậm chí là quý tộc, bị sát hại hay giam hãm. Nó cho rằng họ bị quỷ ám, nguyền rủa, ô uế bởi Mặt Trời Đen, bởi vì đó, trong cái thứ ngôn ngữ kệch cỡm của các ông, là từ dùng để miêu tả một hiện tượng nhật thực đơn giản nhất.”
“Eltibald không hề khùng chút nào. Ông ta đã giải mã những ký tự trên các trụ đá Dauk, trên những bia mộ trong nghĩa trang Wozgor, và xem xét kỹ lưỡng mọi huyền thoại và truyền thuyết. Tất cả đều đề cập đến nhật thực rất rõ ràng. Mặt Trời Đen là điềm báo sự trở về của Lilit, vẫn được tôn vinh ở phương Đông dưới cái tên Niya, và ngày tàn của nhân loại. Con đường của Lilit sẽ được chuẩn bị bởi “sáu mươi người phụ nữ đội vương miện vàng, những kẻ sẽ đổ đầy những con sông trong thung lũng bằng máu.”
“Nhảm nhí,” Geralt phản bác. “Và hơn cả, nó chẳng có vần gì hết. Mọi lời tiên tri hẳn hoi đều có vần. Ai cũng biết trong đầu Eltibald và Hội Đồng Pháp Sư lúc đó nghĩ cái gì. Các ông đã lợi dụng những lời lảm nhảm của một kẻ điên để tăng thêm quyền lực cho mình. Để phá vỡ các liên minh, đập tan lòng trung thành dựa trên hôn nhân, khuấy đảo các triều đại. Nói ngắn gọn: để buộc thêm dây cho những con rối đội vương miện. Vậy mà ông dám ngồi đây lên mặt với tôi về tiên đoán, mà bất cứ người kể truyện lão làng nào ở chợ cũng phải thấy xấu hổ nếu nghe được.”
“Anh cứ việc giữ lấy quan điểm về giả thiết của Eltibald, hay về cách mà những lời tiên đoán được lý giải. Nhưng anh không thể phủ nhận sự thật rằng những cô gái sinh ra ngay sau nhật thực đều bị biến đổi một cách khủng khiếp.”
“Và sao lại không? Tôi đã nghe người ta nói ngược lại là đằng khác.”
“Tôi đã có mặt trong một lần họ giải phẫu một trong số các cô gái đó,” người pháp sư nói. “Geralt, cái mà chúng tôi tìm thấy bên trong hộp sọ và xương sống là không thể diễn tả nổi. Một chất dịch đỏ xốp. Toàn bộ cơ quan nội tạng đều bị xáo trộn, có một số còn biến mất hoàn toàn. Tất cả được bao bọc bởi một thứ lông mao xanh-hồng. Trái tim có sáu ngăn, với hai ngăn bị teo gần hết. Anh nói sao với cái đó?”
“Tôi đã từng thấy có người mọc vuốt đại bàng thay cho bàn tay, nanh sói thay cho răng. Những người mọc thừa chi, thừa nội tạng và có nhiều hơn 5 giác quan. Tất cả đều là do ma thuật của các ông.”
“Anh nói rằng đã nhìn thấy đủ loại đột biến rồi phải không,” Người pháp sư ngẩng đầu lên. “Và anh đã tàn sát bao nhiêu trong số đó để kiếm tiền, để theo đuổi con đường witcher của mình? Thế nào? Bởi vì một người có thể mọc nanh sói và không làm gì hơn là nhe ra với đám lẳng lơ trong quán rượu, hay có thể mang trong người bản chất của một con sói cũng được, và tấn công trẻ con. Và đó cũng tương tự với những cô gái sinh ra sau nhật thực. Xu hướng mất trí dẫn đến tàn nhẫn, hung bạo, những cơn điên bộc phát và không kiềm chế nổi của họ đều đã được ghi nhận.”
“Ông có thể nói như vậy về bất kỳ người phụ nữ nào cũng được,” Geralt mỉa mai. “Ông muốn chứng tỏ cái gì đây? Ông hỏi tôi đã giết bao nhiêu người đột biến. Sao ông không hỏi tôi đã cứu được bao nhiêu khỏi lời nguyền, bùa chú? Tôi, một witcher mà ông khinh ghét. Và ông đã làm được gì nào, hỡi pháp sư vĩ đại?”
“Các phép thuật cao cường hơn đã được sử dụng. Của chúng tôi và cả các tu sĩ, từ nhiều đền thờ khác nhau. Mọi cố gắng đều dẫn đến cái chết của các đối tượng thí nghiệm.”
“Điều đấy chứng tỏ ông kém, chứ chẳng liên quan gì đến họ. Và giờ thì chúng ta đã có những cái xác đầu tiên. Tôi đoán là họ đều đã được giải phẫu?”
“Không. Đừng nhìn tôi như vậy, anh biết rất rõ là còn nhiều xác hơn thế mà. Ý định đầu tiên là thanh trừng hết tất cả bọn họ. Chúng tôi đã loại bỏ được một vài...Tất cả đều được giải phẫu. Một trong số đó thậm chí vẫn còn đang sống khi chúng tôi làm việc.”
“Và lũ khốn khiếp các ông còn có gan để nhiếc móc witcher? Ôi, Stregobor, rồi có ngày mọi người sẽ biết, và cho lũ các ông một bài học.”
“Tôi không nghĩ ngày đó sẽ đến sớm đâu,” người pháp sư tỏ ra khinh khỉnh. “Đừng có quên là chúng tôi hành động vì lợi ích chung của mọi người. Các cô gái đột biến đó sẽ nhấn chìm hàng tá vương quốc trong biển máu.”
“Đấy là pháp sư các ông nói vậy, với sống mũi ngẩng cao, kiêu ngạo và tự tin vào sự hoàn hảo của bản thân. Trong khi tiện nhắc đến, chắc là ông sẽ không muốn cho tôi biết rằng trong cái cuộc săn lùng người đột biến này, ông chưa một lần nào phạm sai lầm?”
“Được rồi.” Stregobor lên tiếng sau một hồi lâu im lặng. “Tôi sẽ thành thật, mặc dù vì sự an nguy của bản thân tôi không nên làm vậy. Chúng tôi có phạm sai lầm – nhiều hơn là một. Xác định được họ là một việc vô cùng khó khăn. Và đó là vì sao chúng tôi ngừng...loại bỏ họ, mà thay vào đó là cô lập.”
“Những tòa tháp trứ danh của các ông.” Witcher khịt mũi.
“Những tòa tháp của chúng tôi. Nhưng đó lại là một sai lầm nữa. Chúng tôi đã đánh giá thấp họ. Rất nhiều đã trốn thoát được. Một trào lưu giải cứu người đẹp điên rồ bỗng nổi lên trong giới hoàng tử, đặc biệt là các thanh thiếu niên, những kẻ mà chẳng có gì nhiều để làm và càng có ít hơn để mất. Đa số họ, may mắn thay, ngã gãy cổ...”
“Theo như tôi biết, những người bị nhốt trong tháp chết rất nhanh. Họ nói rằng các ông đã góp tay vào việc đó.”
“Đó là một lời vu khống. Nhưng đúng thật là những người trong tháp trở nên lãnh cảm rất nhanh, không chịu ăn uống...Điều thú vị là ngay trước khi chết, họ biểu hiện được một số tài năng tiên tri. Càng thêm chứng cứ cho sự đột biến.”
“Chứng cứ của ông ngày càng kém thuyết phục. Còn nữa không?”
“Tôi còn. Silvena, quý phu nhân của Narok, người mà chúng tôi chưa bao giờ có cơ hội tiếp cận bởi vì bà ta thâu tóm quyền lực quá nhanh. Giờ mọi thứ đang đổ bể ở Narok. Fialka, con gái của Evermir, đã trốn thoát khỏi tòa tháp của mình bằng một sợi dây thừng tự chế và giờ đang khủng bố toàn vùng Bắc Velhad. Bernika thành Talgar được giải thoát bởi một gã hoàng tử đần độn. Giờ thì hắn đã được ngồi trong nhà giam, mù, và khung cảnh đặc trưng nhất của Talgar là giá treo cổ. Còn vài trường hợp nữa.”
“Đương nhiên là còn rồi,” witcher đáp lời. “Ví dụ, tại Yamurlak, vương triều của Abrad già. Ông ta bị mắc tràng nhạc, không còn cái răng nào trong mồm, sinh ra vào khoảng mấy trăm năm trước lần nhật thực này, và không thể ngủ nổi trừ khi có người bị tra tấn đến chết trước mặt mình. Ông ta trừ khử sạch sẽ họ hàng và tàn sát một nửa vương quốc trong một lần – ông gọi là cái gì nhỉ - cơn điên bộc phát. Cũng có một số biểu hiện tính khí nóng nảy. Có vẻ như thời trẻ ông ta có biệt danh Abrad Điên-hết-mức. Ôi, Stregobor, nếu mà sự tàn bạo của các vị vua có thể được lý giải chỉ bằng đột biến hay nguyền rủa thôi thì tuyệt biết bao.”
“Nghe này, Geralt...”
“Không. Ông không thuyết phục được tôi với mớ lý luận đó đâu, hay chứng minh được rằng Eltibald không phải một gã sát nhân loạn trí, nên hãy quay lại chủ đề con quái vật đang đe dọa ông đi. Hãy hiểu rằng, sau màn giới thiệu vừa rồi, tôi không thích câu truyện này lắm. Nhưng tôi vẫn sẽ nghe hết.”
“Mà không xen ngang bằng những câu bình luận chua cay?”
“Cái đó tôi không hứa được.”
“Thôi được rồi,” Stregobor cho hai tay vào ống tay áo thụng, “như thế càng khiến việc này lâu hơn thôi. Câu truyện bắt đầu ở Creyden, một vương quốc nhỏ trên phía bắc. Vợ của Fredefalk, hoàng tử của Creyden, là Aridea, một người phụ nữ khôn ngoan, được giáo dục đàng hoàng. Gia đình cô ấy sở hữu nhiều bảo vật ma thuật – và nhờ vào quyền thừa kế, chắc là vậy – cô ấy sở hữu trong tay một món đồ rất hiếm và quyền năng. Một trong những chiếc Gương Nehalenia. Chúng chủ yếu được dùng bởi các nhà tiên tri và bà đồng bởi khả năng dự đoán tương lai khá chính xác, dù hơi khó hiểu một chút. Aridea thường xuyên nhờ cậy đến chiếc Gương...”
“Với câu hỏi phổ biến nhất, tôi đoán thế,” Geralt xen ngang. “Thế gian ai đẹp được dường như ta? Tôi biết, tất cả Gương Nehalenia đều hoặc là rất lịch sự, hoặc là bị hỏng.”
“Anh sai rồi. Aridea quan tâm đến số phận vương quốc của mình hơn. Và chiếc Gương đã trả lời câu hỏi của cô ấy bằng việc dự đoán cái chết khủng khiếp của chính cô, và một cơ số những người khác bởi bàn tay, hay sai lầm, của con gái của Fredefalk từ cuộc hôn nhân đầu tiên của ông ta. Aridea đã báo việc này lên Hội Đồng, và Hội Đồng đã cử tôi đến Creyden. Chắc tôi không cần phải đề cập rằng con gái đầu lòng của Fredefalk sinh ra ngay sau nhật thực. Trong một thời gian dài tôi đã xoay sở điều tra bí mật. Trong khoảng thời gian đó, con bé đã tra tấn một con chim hoàng yến và hai con chó con, đồng thời móc mắt của một người hầu ra bằng một cái cán lược. Tôi làm vài thử nghiệm với lời nguyền, và đa số kết quả đều cho ra rằng đứa trẻ là người đột biến. Tôi đem chúng tới cho Aridea, bởi vì con gái của Fredefalk là cả thế giới đối với ông ta. Aridea, như tôi đã nói, không hề ngu...”
“Đương nhiên rồi,” Geralt lại xen ngang, “và chắc chắn rằng cô ta cũng chẳng yêu thương gì con nuôi của mình. Cô ta muốn chính máu mủ của mình được thừa kế ngai vàng. Tôi có thể đoán chuyện xảy ra tiếp theo. Sao vẫn chưa có ai siết cổ con bé? Và cả ông nữa, tiện tay.”
Stregobor thở dài, ngước mắt lên trời, nơi chiếc cầu vồng vẫn đang tỏa sáng rực rỡ và lung linh như tranh vẽ.
“Tôi muốn cách ly con bé, nhưng Aridea lại quyết định khác. Cô ấy gửi con bé vào rừng với một tên côn đồ thuê. Về sau chúng tôi tìm thấy hắn nằm trong bụi rậm...không mặc quần, nên cũng chẳng khó để tái hiện lại sự việc. Con bé cắm một cái ghim cài áo vào não hắn, xuyên qua mắt, chắc hẳn là trong khi tâm trí hắn đang bận làm việc khác.”
“Nếu ông nghĩ là tôi thấy thương hại hắn,” Geralt lầm bầm, “thì ông lầm rồi.”
“Chúng tôi tổ chức một cuộc săn người,” Stregobor tiếp tục, “nhưng mọi dấu vết của con bé đều biến mất. Tôi đã phải khẩn trương rời khỏi Creyden vì Fredefalk bắt đầu nghi ngờ. Bỗng nhiên, bốn năm sau tôi nhận được tin từ Aridea. Cô ấy đã điều tra ra con bé đang ở Mahakam cùng với 7 gnome mà con bé đã thuyết phục được rằng cướp thương nhân trên xa lộ thì có lời hơn là lao phổi trong hầm mỏ. Con bé có biệt danh là Shrike vì nó thích xiên những người bắt được lên cọc khi họ vẫn còn sống. Aridea đã thuê sát thủ vài lần, nhưng không kẻ nào quay về. Thế rồi, ngày càng khó tìm được người sẵn sàng đảm nhận công việc – Shrike đã trở nên khá nổi tiếng. Con bé học kiếm thành thục tới nỗi khó có người so bì được. Tôi đã được triệu hồi, và bí mật tới Creyden, chỉ để khám phá ra rằng có kẻ đã đầu độc Aridea. Đa số đều tin rằng đó là do Fredefalk, người đã tìm được một tình nhân trẻ trung, đầy đặn hơn. Nhưng tôi nghĩ đó là do Renfri.”
“Renfri?”
“Đó là tên con bé. Tôi nói rằng chính nó đã đầu độc Aridea. Không lâu sau khi hoàng tử Fredefalk chết trong một tai nạn đi săn kỳ quặc, con trai cả của Aridea biến mất không dấu vết. Đó chắc cũng là do bàn tay con bé. Tôi nói “con bé” bởi vì vào lúc đó nó mới 17 tuổi.”
“Trong khi đó,” người pháp sư tiếp tục sau một quãng nghỉ, “con bé và đám gnome đã trở thành cơn ác mộng của cả Mahakam. Cho tới một ngày, chúng xích mích vì chuyện gì đó, tôi không rõ lắm – chia chác của cải, hay đêm nay là đến lượt thằng nào ngủ với con bé – dù sao thì, chúng tàn sát lẫn nhau bằng dao. Chỉ có Shrike còn sống sót. Chỉ có con bé. Và lúc đó tôi thì đang ở quanh khu vực đấy. Chúng tôi chạm trán nhau: con bé nhận ra tôi ngay tức thì và biết vai trò của tôi trong vụ việc ở Creyden. Để tôi nói anh nghe, Geralt, tôi chỉ suýt soát kịp hét lên một lời nguyền – và tay tôi run như chưa bao giờ được run – khi con mèo hoang đó lao vào tôi với một thanh kiếm. Tôi đã biến nó thành một khối pha lê nhẵn nhụi. Một khi nó đã hôn mê, tôi quẳng khối pha lê xuống hầm mỏ của tụi gnome và đánh sập nó.”
“Không được gọn ghẽ cho lắm,” Geralt bình phẩm. “Câu thần chú đó có thể bị đảo ngược. Ông không thể thiêu cô ta ra tro sao? Sau cùng thì ông biết bao nhiêu câu thần chú kia mà.”
“Không. Đó không phải sở trường của tôi. Nhưng anh nói đúng, tôi đã mắc sai lầm. Một gã hoàng tử đần độn nào đó đã tìm thấy con bé, tiêu tốn cả một gia tài để đảo ngược lời nguyền và đem con bé như một chiến lợi phẩm về nhà ở một vương quốc khỉ ho cò gáy nào đấy tít phía đông. Cha của hắn, một lão già du côn, đã tỏ ra khôn ngoan hơn. Ông ta đập cho thằng con trai một trận, và tra hỏi Shrike về kho báu mà con bé và tụi gnome đã tích cóp được và giấu ở đâu đó. Sai lầm của ông ta là để cho thằng con cả hỗ trợ mình trong khi ông ta để con bé nằm dài trên cái bàn hành hình, khỏa thân. Bằng một cách nào đó, ngày hôm sau, cũng chính gã con cả đó – giờ không còn cha mẹ lẫn anh chị em – đã thống trị vương quốc, và Shrike thay thế cho người tình yêu thích nhất của hắn.”
“Có nghĩa là cô ta không hề xấu xí.”
“Cái đó là tùy con mắt nhìn. Con bé không được sủng ái lâu. Cho tới lần đảo chính đầu tiên trong cung điện, đấy là cho nó một cái tên hoành tráng rồi đấy – nó giống một cái nhà kho hơn. Rõ ràng là con bé vẫn chưa quên tôi. Nó cố ám sát tôi ba lần ở Kovir. Tôi quyết định không nên liều lần thứ tư và đợi nó quên đi chuyện này ở Pontar. Lại lần nữa, nó tìm thấy tôi. Lần này tôi trốn tới Angren, nhưng con bé cũng lùng ra tôi ở đấy. Tôi không biết nó làm kiểu gì, tôi đã che đậy dấu vết rất cẩn thận. Chắc hẳn đó phải là một khả năng nhờ vào gien đột biến của nó.”
“Điều gì đã ngăn ông biến cô ta thành một khối pha lê lần nữa? Ngại à?”
“Không. Tôi chẳng bao giờ bị những thứ đó. Con bé đã trở nên kháng ma thuật.”
“Không thể nào.”
“Có thể đấy. Nếu sở hữu trong tay một bảo vật hoặc hào quang cực mạnh. Hoặc có thể là nhờ gien đột biến của con bé, mà càng ngày càng phát triển. Tôi đã trốn thoát khỏi Angren và ẩn mình ở đây, ở Arcsea, tại Blaviken. Tôi đã sống trong yên bình được một năm rồi, nhưng con bé lại tìm ra tôi lần nữa.”
“Làm sao ông biết? Cô ta đã ở trong thị trấn rồi sao?”
“Phải. Tôi trông thấy nó trong quả cầu pha lê.” Người pháp sư vẫy cây đũa phép. “Con bé không đi một mình. Nó đang cầm đầu một băng nhóm, thế có nghĩa là nó đang mưu tính chuyện gì rất lớn. Geralt, tôi không còn nơi nào để chạy cả. Tôi không biết mình còn trốn đâu được nữa. Sự thật rằng anh có mặt ở đây tại thời điểm này không thể là ngẫu nhiên. Đó là định mệnh.”
Witcher nhướng một bên lông mày. “Ông đang nghĩ cái gì?”
“Rõ ràng quá rồi còn gì. Anh sẽ giết con bé.”
“Tôi không phải một tên côn đồ cho thuê, Stregobor.”
“Anh không phải một tên côn đồ, tôi đồng ý.”
“Tôi giết quái vật vì tiền. Những con thú gây nguy hại đến tính mạng người khác. Những cơn ác mộng được triệu hồi bởi ma thuật và bùa chú do bàn tay các ông. Không phải người.”
“Con bé không phải người. Nó chính xác là một con quái vật: một kẻ đột biến, một kẻ đột biến bị nguyền rủa. Anh đã mang một con kikimora đến đây. Shrike còn tệ hơn một con kikimora. Một con kikimora giết bởi vì nó đói, nhưng Shrike làm vậy vì khoái lạc. Hãy giết nó và tôi sẽ trả anh bao nhiêu tiền cũng được. Đương nhiên là phải trong giới hạn vừa phải rồi.”
“Tôi đã nói với ông rồi. Tôi coi câu truyện về đột biến và lời nguyền của Lilit là nhảm nhí. Cô gái có lý do để trả thù ông, và tôi sẽ không dính vào chuyện này. Hãy nhờ thị trưởng, hay lính gác. Ông là pháp sư của thị trấn, ông được luật pháp bảo vệ.”
“Tôi nhổ vào cái luật pháp, tay thị trưởng và sự giúp đỡ của ông ta!” Stregobor bùng nổ. “Tôi không cần bảo vệ, tôi cần phải giết nó! Không ai vào được tòa tháp này – tôi an toàn ở trong đây. Nhưng thế thì có nghĩa lý gì chứ? Tôi không định sống nốt phần đời còn lại trong một tòa tháp, và Shrike sẽ không bao giờ bỏ cuộc chừng nào tôi vẫn còn sống. Chẳng lẽ tôi phải ngồi đây và chờ chết hay sao?”
“Họ đã phải chịu như vậy. Ông biết gì không, pháp sư? Lẽ ra ông nên để cuộc săn lùng các cô gái đó lại cho những phù thủy hùng mạnh hơn. Lẽ ra ông nên thấy trước được hậu quả.”
“Làm ơn đi, Geralt.”
“Không, Stregobor.”
Người pháp sư im lặng. Vầng mặt trời không thực trên bầu trời không thực chưa hề di chuyển một chút nào nhưng witcher biết ở Blaviken giờ đã là hoàng hôn rồi. Anh thấy đói.
“Geralt,” Stregobor cất lời, “khi chúng tôi nghe Eltibald trình bày, rất nhiều người đã hồ nghi. Nhưng chúng tôi đã quyết định chọn cái ác nhỏ hơn. Giờ tôi đang yêu cầu anh lựa chọn tương tự.”
“Cái ác là cái ác, Stregobor,” witcher nói nghiêm trang trong khi đứng dậy. “Dù là nhỏ, lớn, hay vừa, đều như nhau cả. Tỷ lệ có thể du di, những lằn ranh có thể lu mờ. Tôi không phải một ẩn sĩ sùng đạo, cả đời tôi không hoàn toàn chỉ làm những điều tốt. Nhưng nếu tôi phải chọn giữa một cái ác này hay cái ác kia, thì tôi thà không chọn còn hơn. Đã đến lúc tôi phải đi rồi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ngày mai.”
“Có thể,” người pháp sư nói, “nếu anh tới kịp.”