[Dịch] Tên Sát Nhân Mercedes - Mr. Mercedes

Quyển 6 - KISSES ON THE MIDWAY-Chương 104 : KISSES ON THE MIDWAY 6.1




Hodges dậy lúc sáu giờ sáng thứ Năm và nấu cho mình một bữa sáng thịnh soạn: hai quả trứng, bốn dải thịt lợn muối xông khói, bốn lát bánh mì. Ông không muốn ăn, nhưng cố ép mình phải ăn hết từng miếng một, tự động viên mình rằng đó là xăng cho cơ thể. Có thể hôm nay ông vẫn còn cơ hội ăn một bữa nữa, nhưng cũng có thể không. Cả lúc trong nhà tắm và khi đang trệu trạo nhai một cách gan lì cho xong bữa sáng (giờ chẳng còn ai nhắc nhở chuyện cân nặng của ông nữa), một ý nghĩ xuất hiện đi xuất hiện lại trong tâm trí ông, vẫn là cái ý nghĩ mà ông đã thiếp đi cùng đêm trước. Giống như một nỗi ám ảnh.

Chính xác thì là bao nhiêu thuốc nổ?

Câu hỏi này dẫn đến những cân nhắc khó chịu khác. Ví dụ như hắn - tên perk ấy - định dùng bao nhiêu. Và vào lúc nào.

Ông đi đến quyết định: hôm nay là ngày cuối cùng. Ông muốn tự mình lần ra tên Sát nhân Mercedes, và đối mặt với hắn. Giết hắn ư? Không, cái đó thì không (có lẽ là không), nhưng tẩn cho hắn vãi cứt ra thì thật tuyệt vời. Vì Olivia. Vì Janey. Vì Janice và Patricia Cray. Vì tất cả những người mà tên Sát nhân Mercedes đã giết và hủy hoại ở City Center năm ngoái. Những người đã tuyệt vọng đối với việc làm đến nỗi phải thức dậy lúc nửa đêm và đứng đợi những cánh cửa ấy mở ra giữa làn sương mù dày đặc. Những cuộc đời bị đánh mất. Những hy vọng bị đánh mất. Những linh hồn bị đánh mất.

Vậy nên đúng, ông muốn tên chó đẻ đó. Nhưng nếu hôm nay mà không tóm được hắn, ông sẽ bàn giao lại mọi thứ cho Pete Huntley và Izzy Jaynes rồi nhận mọi hậu quả… ông biết, việc này hoàn toàn có thể khiến ông ngồi tù một thời gian.

Chẳng sao cả. Lương tâm của ông đã gánh chịu kha khá rồi, nhưng ông nghĩ chắc nó vẫn chịu đựng thêm được chút nữa. Tuy nhiên, một vụ thảm sát nữa thì không. Điều đó sẽ phá hủy nốt những gì ít ỏi còn lại trong ông.

Ông quyết định cho mình thời hạn đến tám giờ tối nay; đó là đường ranh trên cát. Trong khoảng mười ba tiếng đồng hồ đó ông có thể làm chẳng kém gì Pete và Izzy. Có khi còn hơn, vì ông không bị ràng buộc bởi quy trình và thủ tục. Hôm nay ông sẽ mang khẩu M&P 38 của cha mình. Và Happy Slapper cả cái đó nữa.

Cái Slapper chui tọt vào túi trước bên phải áo khoác của ông, khẩu ổ xoay bên dưới nách tay trái. Trong phòng làm việc, ông chộp lấy tập hồ sơ về tên Sát nhân Mercedes - giờ thì kha khá dày rồi - và mang nó trở ra bếp. Trong lúc đọc lại nó một lượt, ông lấy điều khiển từ xa bật ti vi trên quầy bếp và tìm chương trình Morning at Seven trên Kênh 6. Ông gần như nhẹ cả người khi thấy một chiếc cần cẩu vừa đổ nhào gần bờ hồ, suýt đánh đắm một chiếc sà lan chở hóa chất. Ông không muốn hồ nước ô nhiễm thêm chút nào nữa so với hiện trạng (giả sử là điều đó còn có thể), nhưng vụ tràn hóa chất đã đẩy câu chuyện đánh bom xe xuống hàng thứ hai. Đó là tin tốt. Tin xấu là ông đã lộ danh tính là một thanh tra, giờ đã nghỉ hưu, từng là điều tra chính nhóm chuyên án vụ Thảm sát City Center, và người phụ nữ bị chết trong vụ đánh bom xe được xác định là em gái của Olivia Trelawney. Còn có cả một bức ảnh chụp ông và Janey đứng bên ngoài Nhà tang lễ Soames, ai chụp thì có Chúa mới biết.

“Cảnh sát không khẳng định vụ nổ có liên hệ với vụ thảm sát năm ngoái ở City Center,” người đọc bản tin nói với vẻ nghiêm trọng, “nhưng đáng chú ý là hung thủ gây ra tội ác đó vẫn chưa bị bắt. Trong một tin tức hình sự khác, Donald Davis sẽ bị đưa ra xét xử…”

Hodges chẳng còn quan tâm mẹ gì đến Donald Davis. Ông tắt ti vi và quay trở lại với những ghi chép trên tập sổ của mình. Ông còn đang chăm chú đọc chúng thì điện thoại đổ chuông - không phải điện thoại di động (dù hôm nay ông mang nó theo mình), mà là cái treo trên tường. Là của Pete Huntley.

“Anh dậy sớm như chim sâu ấy nhỉ,” Pete nói.

“Thủ thuật điều tra giỏi đấy. Tôi giúp gì được cậu đây?”

“Hôm qua chúng tôi đã có một buổi thẩm vấn thú vị với Henry Sirois và Charlotte Gibney. Anh biết đấy, dì và cậu của Janelle Patterson?” Hodges chờ đợi.

“Bà dì mới thực sự là thú vị. Bà ấy nghĩ Izzy đã đúng, rằng anh và Patterson còn hơn mức người quen rất nhiều. Bà ấy cho rằng hai người là bạn rất thân thiết.”

“Hãy nói thẳng ý cậu ra đi, Pete.”

“Làm con quái vật hai lưng. Đặt đường ống nước. Cắt bánh. Giấu thỏi xúc xích. Nhảy điệu bebop ngang[46] …”

“Tôi nghĩ là tôi hiểu rồi. Để tôi cho cậu biết điều này về bà dì Charlotte, được chứ? Nếu bà ta mà nhìn thấy một bức ảnh Justin Bieber nói chuyện với nữ hoàng Elizabeth, bà ta sẽ bảo anh là Bieber đang chén nữ hoàng cho mà xem. ‘Cứ nhìn mắt họ là biết,’ kiểu gì bà ta chẳng nói thế.”

“Vậy là hai người không có gì?”

“Không.”

“Tôi cứ tạm cho là thế đã - chủ yếu vì ân tình ngày trước - nhưng tôi vẫn muốn biết anh đang che giấu điều gì. Vì chuyện này có mùi lắm.”

“Hãy đọc môi tôi này: không… giấu… gì hết.”

Đầu bên kia im lặng. Pete đang chờ Hodges khó chịu và phá vỡ nó, trong giây lát, anh ta quên béng mất rằng ai đã dạy mình trò đó.

Cuối cùng anh ta bỏ cuộc. Tôi nghĩ anh đang tự đào hố cho mình đấy, Billy. “Lời khuyên của tôi là hãy buông xẻng trước khi anh ở dưới sâu quá và không trèo ra được.”

“Cảm ơn, cộng sự. Thật là thích khi nhận được những bài học cuộc sống vào lúc bảy giờ mười lăm phút sáng.”

“Tôi muốn thẩm vấn anh lần nữa vào chiều nay. Và lần này có thể tôi phải đọc cho anh nghe mấy lời đó.”

Ý anh ta muốn nói đến lời cảnh báo Miranda.

“Tôi rất vui lòng làm việc đó. Hãy gọi vào số di động của tôi.”

“Thật à? Từ khi về hưu, anh có bao giờ mang nó theo đâu.”

“Hôm nay thì có.” Quả thật là thế. Vì trong vòng mười hai đến mười bốn tiếng đồng hồ tới, ông hoàn toàn không nghỉ hưu.

Ông kết thúc cuộc trò chuyện và quay lại với những trang ghi chép, nhấp ướt đầu ngón trỏ mỗi lần lật trang. Ông khoanh tròn một cái tên: Radney Peeples. Nhân viên công ty bảo vệ Vigilant mà ông đã hỏi chuyện ở Sugar Heights. Chỉ cần Peeples thực hiện một nửa chức trách của mình, có thể anh ta đang nắm giữ chìa khóa dẫn đến tên Sát nhân Mercedes. Nhưng không có chuyện anh ta sẽ không nhớ Hodges, nhất là sau khi ông đã nắm giữ chân anh ta để bắt xuất trình ID công ty và rồi còn tra hỏi anh ta nữa. Và anh ta hẳn đã biết hôm nay Hodges đang là tin nóng. Có thời gian để nghe cách giải quyết vấn đề này; Hodges chưa muốn gọi cho Vigilant trước giờ làm việc thông thường. Bởi vì cuộc gọi đó cần phải giống như là một thủ tục thông thường.

Cuộc gọi tiếp theo ông nhận được - lần này trên di động - là của dì Charlotte. Hodges không ngạc nhiên khi bà ta gọi tới, nhưng không có nghĩa là ông thích thú gì.

“Tôi không biết phải làm gì nữa!” bà ta khóc lóc. “Ông phải giúp tôi, ông Hodges.”

“Không biết phải làm gì cơ?”

“Cái xác! Cái xác của Janey! Tôi thậm chí còn không biết nó đang ở đâu?”

Hodges nghe thấy một tiếng tít và kiểm tra số điện thoại đang gọi đến.

“Bà Gibney, tôi có một cuộc gọi khác và tôi phải nghe đã.”

“Tôi không hiểu tại sao ông lại không thể…”

“Janey có đi mất đâu được, vậy nên cứ giữ máy đấy. Tôi sẽ gọi lại cho bà.”

Ông ngắt máy giữa tiếng quàng quạc phản đối của bà ta và quay sang Jerome.

“Cháu nghĩ có lẽ hôm nay bác cần một tài xế,” Jerome nói. “Xét đến tình trạng của bác lúc này.”

Thoạt đầu Hodges không hiểu thằng nhóc đang nói về chuyện gì, rồi nhớ ra chiếc Toyota của ông đã chỉ còn là đống sắt vụn cháy đen. Những gì còn lại của chiếc xe đang thuộc sự quản lý của Phòng Kỹ thuật Hình sự trực thuộc sở cảnh sát, ở đó ngày hôm nay những người mặc áo choàng trắng sẽ rà qua rà lại để xác định loại thuốc nổ nào đã làm nổ tung chiếc xe. Đêm qua ông đã bắt taxi về nhà. Ông sẽ cần đi nhờ xe. Và, ông nhận ra, có thể Jerome sẽ có ích theo một cách khác.

“Được thế thì tốt,” ông nói, “nhưng chuyện đi học thì sao?”

“Điểm trung bình các môn của cháu đang là 3,9[47] ,” Jerome nhẫn nại nói. “Cháu còn làm việc cho Citizens United và phụ trách một lớp tin học cho trẻ khuyết tật. Cháu bỏ một ngày cũng không sao. Và cháu đã nói chuyện này với bố mẹ rồi. Họ chỉ bảo cháu hỏi bác xem có còn người nào đang tìm cách cho bác nổ tung nữa không.”

“Thật ra cũng không thể chắc chắn được đâu.”

“Bác chờ chút.” Hodges loáng thoáng nghe tiếng Jerome nói với ra: “Bác ấy bảo là không có ai đâu.”

Bất chấp tất cả mọi chuyện, Hodges không khỏi mỉm cười.

“Cháu sẽ tới đó nhanh gấp đôi,” Jerome nói.

“Đừng có chạy quá tốc độ đấy. Chín giờ là được rồi. Hãy dùng thời gian từ giờ tới lúc đó để thực hành kỹ năng đóng kịch của cháu đi.”

“Thật á? Cháu sẽ diễn vai gì đây?”

“Trợ lý văn phòng luật,” Hodges nói. “Và cảm ơn cháu, Jerome.”

Ông ngắt máy, vào phòng làm việc, bật máy tính lên, và tìm một luật sư trong thành phố có họ là Schron. Đó là một cái tên khác thường và ông dễ dàng tìm thấy nó. Ông ghi lại tên hãng luật và tên của Schron, là George. Rồi ông quay trở ra bếp và gọi cho dì Charlotte.

“Hodges đây,” ông nói. “Quay lại với bà đây.”

“Tôi không đánh giá cao việc bị gác máy giữa chừng như thế, ông Hodges.”

“Cũng không cao bằng tôi đánh giá việc bà nói với cộng sự cũ của tôi rằng tôi lên giường với cháu gái bà.”

Ông nghe thấy một tiếng hổn hển sững sờ, tiếp theo là sự im lặng. Ông đã hy vọng là bà ta cúp máy. Khi thấy bà ta không làm thế, ông bèn nói những gì bà ta cần biết.

“Thi hài của Janey sẽ được giữ ở nhà xác hạt Huron. Hôm nay thì bà không thể nhận về được. Ngày mai có lẽ cũng không. Người ta sẽ mổ pháp y, kể ra thì thật vô lý nếu xét đến nguyên nhân cái chết, nhưng đó là thủ tục.”

“Ông không hiểu! Tôi đặt vé máy bay rồi?”

Hodges nhìn ra ngoài cửa sổ bếp và chậm rãi đếm đến năm.

“Ông Hodges? Ông còn đấy không?”

“Như tôi thấy thì bà có hai lựa chọn, bà Gibney. Một là ở lại đây và làm điều đúng đắn. Lựa chọn kia là cứ việc dùng cái vé bay về nhà, và để thành phố lo chuyện này.”

Dì Charlotte bắt đầu thút thít. “Tôi thấy cách ông nhìn con bé, và cách nó nhìn ông. Tất cả những gì tôi làm là trả lời câu hỏi của cô cảnh sát ấy.”

“Với tất cả thiện ý của mình, tôi không nghi ngờ điều đó.”

“Với gì cơ?”

Ông thở dài. “Thôi bỏ đi. Theo tôi thì bà và em trai nên trực tiếp đến nhà xác hạt. Đừng gọi điện trước, hãy để họ thấy mặt hai người. Hãy nói chuyện với bác sĩ Galworthy. Nếu Galworthy không ở đó, hãy nói chuyện với bác sĩ Patel. Nếu bà trực tiếp nhờ họ tiến hành công việc - và nếu bà tỏ ra biết điều - họ sẽ hết sức giúp đỡ bà. Hãy nói tên tôi ra. Tôi làm việc với cả hai người đó từ hồi thập niên chín mươi.”

“Chúng tôi sẽ lại phải để Holly ở nhà,” dì Charlotte nói.

“Con bé đang tự khóa mình trong phòng. Nó cứ lạch cạch máy tính và không chịu ra ngoài.”

“Hodges phát hiện ra ông đang tự giật tóc và bắt mình dừng lại. Con gái bà bao nhiêu tuổi rồi?”

Một khoảng ngập ngừng kéo dài. “Bốn mươi lăm.”

“Thế thì có lẽ bà hoàn toàn có thể đi mà không cần thuê người trông nom.” Ông cố kiềm chế câu tiếp theo, nhưng không thành công lắm. “Hãy nghĩ đến khoản tiền bà tiết kiệm được.”

“Tôi không mong ông hiểu hoàn cảnh của Holly, ông Hodges. Ngoài thần kinh không ổn định, con gái tôi còn rất nhạy cảm.”

Hodges nghĩ, Như thế chắc chắn càng khiến bà đặc biệt hà khắc đối với cô ấy. Lần này ông kìm lại được.

“Ông Hodges?”

“Đây.”

“Không biết ông có tình cờ biết Janelle có để lại di chúc không vậy?” Ông cúp máy.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.