[Dịch] Tên Sát Nhân Mercedes - Mr. Mercedes

Quyển 4 - BẢ ĐỘC-Chương 47 : BẢ ĐỘC 4.5




Hodges đi được nửa đường Harper, rồi bắt đầu gõ cửa các nhà giống như ngày trước. Cày qua cày lại khắp hai bên phố, không bỏ sót nhà nào, đi lộn ngược từ dưới lên. Hôm đó là ngày thường, nhưng số người trả lời tiếng gõ cửa hoặc tiếng bấm chuông của ông thật đáng ngạc nhiên. Một số là bà nội trợ nhưng nhiều người là dân về hưu như ông, đủ may mắn để trả xong tiền nhà trước khi nền kinh tế thủng đáy, nhưng ngoài điều đó ra thì cũng chẳng sung sướng gì cho lắm. Có thể là không đến nỗi đắp đổi lần hồi ngày qua ngày hoặc tuần qua tuần, nhưng cũng phải căn ke chi phí ăn uống với chi phí của đủ thứ thuốc thang hầm bà lằng cho người già mỗi khi hết tháng.

Câu chuyện của ông rất đơn giản, vì đơn giản lúc nào cũng là tốt nhất. Ông nói rằng đã xảy ra các vụ đột nhập ở cách đó vài khối nhà có lẽ là tụi nhóc - và ông đang kiểm tra xem có ai trong khu vực gần nhà mình để ý thấy xe cộ nào khác thường không, và đã xuất hiện hơn một lần. Chúng có lẽ sẽ lượn lờ thậm chí còn chậm hơn cả giới hạn tốc độ hai mươi lăm dặm một giờ, ông nói. Ông không cần phải giải thích gì thêm cả; tất cả họ đều xem các chương trình cảnh sát và biết “chắp nối các đầu mối” nghĩa là thế nào.

Ông cho họ xem thẻ cảnh sát của mình, có cả chữ NGHỈ HƯU đóng bằng dấu đỏ ngang tên họ và những thông tin cơ bản bên dưới ảnh. Ông còn cẩn thận nói rõ rằng không, ông không được cảnh sát yêu cầu tiến hành việc rà soát này (điều cuối cùng trên đời này mà ông muốn là một trong những người hàng xóm của mình lại gọi đến Tòa nhà Murrow ở trung tâm để kiểm tra về ông), mà đây chỉ là ý tưởng của riêng ông thôi.

Xét cho cùng thì ông cũng sống trong khu này và có lợi ích cá nhân về vấn đề an ninh của cả khu.

Bà Melbourne, bà góa phụ có những bông hoa làm Odell mê mẩn, mời ông vào dùng cà phê và bánh. Hodges nhận lời vì thấy bà có vẻ cô đơn. Đó là cuộc nói chuyện thực sự lần đầu tiên giữa ông với bà, và ông nhanh chóng nhận ra rằng nếu ưu ái thì có thể gọi bà là lập dị, còn không thì phải gọi thẳng là hâm hâm. Nhưng nói năng thì mạch lạc đâu ra đấy. Ông phải công nhận điều đó bà. Bà giải thích về những chiếc SUV màu đen mà bà đã quan sát (“Với cửa kính phản quang khiến ta không thể nào nhìn qua được, giống hệt như trong phim 24”), và nói với ông về những chiếc ăng ten đặc biệt của chúng. Ăng ten roi, bà gọi chúng thế, và vẫy vẫy bàn tay qua lại để diễn tả.

“Ừ hứ,” Hodges nói. “Để tôi ghi chép lại.” Ông lật một trang trong cuốn sổ ghi chép của mình và viết nguệch ngoạc Mình phải ra khỏi đây mới được trên trang giấy mới.

“Đó là một ý tưởng hay,” bà nói, mắt sáng bừng. “Tôi phải nói với ông là tôi đã vô cùng lấy làm tiếc khi vợ ông rời bỏ ông, Thanh tra Hodges. Bà ấy đã làm thế phải không?”

“Chúng tôi đã đồng ý bảo lưu bất đồng,” Hodges nói với giọng điệu vui vẻ, trong khi ông chẳng hề cảm thấy thế chút nào.

“Thật tốt khi được gặp trực tiếp ông thế này và biết là ông vẫn để ý đến mọi chuyện. Dùng thêm cái bánh nữa đi.”

Hodges liếc nhìn đồng hồ, đóng cuốn sổ ghi chép lại và đứng lên. “Tôi rất sẵn lòng, nhưng có lẽ tôi phải đi thì hơn. Có một cuộc hẹn vào buổi trưa.”

Bà Melbourne săm soi thân hình đồ sộ của ông và nói, “Với bác sĩ à?”

“Chuyên gia nắn chỉnh xương khớp.”

Bà Melbourne cau mày, biến khuôn mặt của mình thành một cái vỏ quả óc chó có mắt. “Hãy nghĩ kỹ vào, Thanh tra Hodges. Mấy gã bẻ lưng ấy nguy hiểm lắm. Có những người đã nằm xuống mấy cái bàn ấy và không bao giờ còn đi lại được nữa đâu.”

Bà góa tiễn ông ra cửa. Khi ông bước ra đến hiên ngoài thì bà nói, “Tôi sẽ kiểm tra cả gã bán kem ấy nữa. Cảm giác như mùa xuân năm nay lúc nào hắn cũng ở đây. Ông có cho là hãng Loeb’s Ice Cream kiểm tra những người mà họ thuê lái mấy cái xe tải nhỏ ấy không? Tôi hy vọng là có, vì gã đó nhìn gian lắm. Biết đâu hắn là một tên ấu dâm thì sao.”

“Tôi tin chắc các lái xe của họ đều phải có lý lịch, nhưng tôi sẽ xem xét chuyện này.”

“Đó cũng là một ý hay!” bà Melbourne thốt lên.

Hodges tự hỏi không biết ông sẽ làm gì nếu bà Melbourne thò ra một cái móc dài giống như trong các chương trình nhạc kịch ngày xưa và cố lôi giật ông trở vào trong. Một kỷ niệm thời thơ ấu dội về trong ông: mụ phù thủy trong Hansel và Gretel.

“Với lại - tôi vừa mới nghĩ đến điều này - dạo gần đây tôi thấy có mấy chiếc xe thùng. Trông chúng như là xe thùng chuyển phát nhanh - có cả tên công ty - nhưng ai mà chẳng bịa ra tên công ty được chứ, ông có nghĩ vậy không?”

“Điều đó luôn có thể xảy ra,” Hodges nói và bước xuống bậc thềm.

“Ông nên ghé qua cả số nhà mười bảy nữa.” Bà chỉ về phía đỉnh dốc. “Đi một mạch xuống gần đến phố Hanover. Có mấy người chuyển đến muộn, và bật nhạc ầm ĩ lắm.” Bà Melbourne nhoài người về phía trước trên ngưỡng cửa, gần như cúi gập người. “Đó có thể là một tụ điểm nghiện ngập. Một ngôi nhà của bọn chích choác.”

Hodges cảm ơn về thông tin đó và ì ạch băng qua phố.

Những chiếc SUV và gã bán kem Mr. Tastey, ông nghĩ bụng.

Chưa kể những chiếc xe thùng chuyển phát nhanh chất đầy bọn khủng bố Al Qaeda.

Bên kia đường, ông tìm được một ông bố ở nhà nội trợ, tên là Alan Bowfinger. “Chỉ có đừng nhầm tôi với Goldfinger là được”, ông ta nói và mời Hodges ngồi xuống một chiếc ghế đặt trên thảm cỏ phía bên hông trái ngôi nhà, nơi có bóng mát.

Hodges sung sướng nhận lời ngay.

Bowfinger cho biết ông ta kiếm sống bằng nghề viết thiệp chúc mùng. “Tôi chuyên về loại thiệp hơi châm chọc một chút. Giống như bên ngoài thì viết, ‘Chúc mừng Sinh nhật! Ai là người xinh đẹp nhất thế gian?’ Và khi người ta mở nó ra, có một miếng giấy bạc với một khe rãnh chạy dọc xuống ở giữa.”

“Vậy à? Thế thông điệp là gì?”

Bowfinger giơ hai bàn tay lên, như thể làm một cái khung. “‘Không phải bạn, nhưng dù sao chúng tôi cũng vẫn yêu bạn’.”

“Đểu nhỉ,” Hodges nhận xét.

“Thì rõ, nhưng nó kết thúc với thông điệp thể hiện tình yêu. Đó là yếu tố khiến tấm thiệp bán chạy. Đầu tiên là cú chọc, sau đó là cái ôm. Còn về mục đích của ông hôm nay, ông Hodges… hay tôi gọi ông là ngài Thanh tra?”

“Bây giờ chỉ còn là ông thôi.”

“Tôi chưa nhận thấy có gì khác thường. Không thấy ai lượn lờ ngoài những người đi tìm địa chỉ và chiếc xe bán kem sau giờ tan trường.” Bowfinger nhướng mắt. “Chắc ông đã nghe đến phát chán ở chỗ bà Melbourne rồi nhỉ?”

“À…”

“Bà ấy là một thành viên của NICAP,” Bowfinger nói. “Viết tắt của Ủy ban Điều tra Quốc gia về các Hiện tượng Hàng không.”

“Các thứ về thời tiết ấy à? Về các cơn bão và các loại mây?”

“Chảo bay.” Bowfinger giơ tay lên trời. “Bà ấy cho rằng chúng nhởn nhơ lẫn trong chúng ta.”

Hodges nói một câu mà bình thường sẽ chẳng bao giờ qua được kẽ môi ông nếu như ông vẫn còn công tác và đang tiến hành một cuộc điều tra chính thức. “Bà ấy nghĩ tay bán kem Mr. Tastey có thể là một kẻ ấu dâm.”

Bowfinger cười chảy cả nước mắt. “Ôi Chúa ơi,” ông ta nói. “Tay đó đã ở khu này cả năm sáu năm nay rồi, lái cái xe tải nhỏ và leng keng mấy cái chuông. Ông nghĩ hắn đã chén bao nhiêu củ ấu trong ngần ấy thời gian rồi?”

“Không biết,” Hodges vừa nói vừa đứng lên. “Hàng tá, biết đâu được.” Ông chìa tay ra và Bowfinger bắt lấy. Thêm một điều khác mà Hodges đang khám phá về chuyện nghỉ hưu: hàng xóm của ông có những câu chuyện và tính cách.

Thậm chí một vài trong số đó còn thú vị phết.

Trong lúc ông đang cất cuốn sổ ghi chép đi, một vẻ hốt hoảng chợt hiện lên trên mặt Bowfinger.

“Chuyện gì thế?” Hodges hỏi, ngay lập tức lại tỉnh như sáo.

Bowfinger trỏ qua bên kia phố và nói, “Ông không ăn cái bánh nào của bà ấy đấy chứ?”

“Có sao?”

“Tôi sẽ ở gần toilet trong vài tiếng đồng hồ, nếu tôi là ông.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.