[Dịch] Tên Sát Nhân Mercedes - Mr. Mercedes

Quyển 3 - DƯỚI CHIẾC Ô XANH CỦA DEBBIE-Chương 31 : DƯỚI CHIẾC Ô XANH CỦA DEBBIE 3.9




“Ollie.”

Janey thốt lên, rồi ngồi yên lặng đủ lâu để Hodges nhấp một chút cà phê trong cốc mới và ăn một chiếc bánh. Sau đó, cô lại ngoảnh ra phía cửa sổ và những chiếc thuyền buồm, bắt tréo chân, và nói mà không nhìn ông.

“Có bao giờ ông yêu ai đó mà không hề thích họ không?”

Hodges nghĩ đến Corinne, và mười tám tháng giông bão trước khi vỡ hoàn toàn. “Có.”

“Vậy ông sẽ hiểu. Ollie là chị tôi, hơn tôi tám tuổi. Tôi yêu chị ấy, nhưng khi chị ấy rời nhà đi học đại học, tôi là cô bé hạnh phúc nhất nước Mỹ. Và rồi khi chị ấy bỏ học ba tháng sau đó và quay trở về nhà như trốn chạy, tôi có cảm giác như thể một cô bé mệt mỏi lại phải vác lên mình bao tải gạch sau khi mới được phép bỏ xuống một lúc. Chị ấy không hà khắc gì với tôi, không bao giờ quát mắng, bắt nạt hay trêu chọc gì tôi khi tôi đi học về, tay trong tay với Marky Sullivan học cùng trường cấp hai, nhưng khi chị ấy ở nhà thì lúc nào chúng tôi cũng trong Trạng thái Vàng. Ông hiểu ý tôi không?”

Hodges cũng không hoàn toàn chắc lắm, nhưng vẫn gật bừa.

“Đồ ăn làm chị ấy bị kích ứng dạ dày. Chị ấy bị nổi mề đay mỗi khi căng thẳng bất kỳ chuyện gì - phỏng vấn xin việc là kinh khủng nhất, mặc dù cuối cùng chị ấy cũng kiếm được một việc làm thư ký. Chị ấy thạo việc mà lại còn rất xinh nữa. Ông biết chứ?”

Hodges chỉ ậm ừ cho xong. “Nếu bắt buộc phải trả lời thật lòng, có lẽ ông đã nói, Tôi tin chứ vì tôi nhìn thấy điều đó ở cô. Có lần chị ấy đồng ý đưa tôi đi xem ca nhạc. Đó là buổi diễn của U2, tôi phát cuồng lên vì họ. Ollie cũng thích ban nhạc đó nhưng đúng đêm diễn thì chị ấy bắt đầu nôn ói. Tình hình tệ đến nỗi cuối cùng bố mẹ tôi phải đưa chị ấy đi cấp cứu còn tôi thì ngồi nhà xem ti vi thay vì nhảy nhót và gào thét với anh Bono. Ollie thề là chị ấy bị ngộ độc thức ăn, nhưng tất cả chúng tôi đều ăn bữa đó, và không ai làm sao cả. Đó chẳng qua là vì căng thẳng. Hoàn toàn là căng thẳng. Còn ông nói về bệnh tưởng chứ gì? Với chị tôi, mọi cơn đau đầu đều là một khối u não và cái mụn nào cũng là ung thư da. Một lần chị ấy bị đau mắt đỏ và mất cả tuần khăng khăng là mình sắp mù. Những kỳ kinh của chị ấy mới thật là khủng khiếp. Lần nào chị ấy cũng nằm bẹp trên giường cho đến khi hết.”

“Vậy mà bà ấy vẫn giữ được công việc sao?”

Câu trả lời của Janey khô khốc như Thung lũng Chết. “Kỳ kinh của Ollie bao giờ cũng kéo dài đúng bốn mươi tám tiếng và luôn đến vào dịp cuối tuần. Đúng là kỳ lạ.”

“Ồ ồ.” Hodges không nghĩ ra được gì để nói.

Janey dùng đầu ngón tay xoay bức thư vài vòng trên bàn cà phê, rồi ngước đôi mắt xanh nhạt ấy lên nhìn Hodges.

“Trong này hắn có dùng một cụm từ - một đoạn nói về những những cố tật do căng thẳng. Ông có để ý không?”

“Có.” Hodges để ý thấy rất nhiều thứ trong bức thư này, chủ yếu là xét nhiều góc độ thì nó chính là phim âm bản của bức thư gửi cho ông.

“Chị tôi cũng mắc những tật đó. Có thể ông đã nhận ra một số rồi.”

Hodges giật cà vạt của mình sang bên này, rồi kéo sang bên kia.

Janey nhoẻn miệng cười. “Đúng rồi, đó là một. Còn nhiều hành động khác. Sờ công tắc điện để chắc chắn là đã tắt rồi. Rút ổ cắm lò nướng bánh sau bữa sáng. Lần nào chị ấy cũng nói cụm từ bánh mì bơ trước khi ra khỏi nhà đi đâu đó, vì có vẻ như nếu nói câu ấy thì ta sẽ nhớ ra được mọi điều mà ta đã quên mất. Tôi nhớ một hôm chị ấy phải lái xe đưa tôi đến trường vì tôi lỡ xe buýt. Bố mẹ thì đi làm rồi. Chúng tôi đi được nửa đường thì chị ấy quả quyết là lò nướng vẫn còn bật. Chúng tôi phải quay xe về kiểm tra. Nói thế nào cũng không xong. Tất nhiên là tắt rồi chứ. Đến tiết thứ hai tôi mới đến được lớp, và đó là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất tôi bị phạt ở lại trường sau giờ học. Tôi cáu điên lên. Tôi thường điên lên với chị ấy, nhưng tôi yêu chị ấy. Cả bố mẹ tôi đều vậy. Như kiểu là tình cảm tự nhiên rồi. Nhưng trời đất ơi, chị ấy đúng là một bao tải gạch.”

“Căng thẳng đến nỗi không dám ra ngoài, nhưng bà ấy không chỉ lấy chồng, mà còn lấy chồng giàu kếch xù.”

“Thực ra chị ấy kết hôn với một nhân viên hói sớm cùng công ty đầu tư chỗ chị ấy làm. Kent Trelawney. Một con mọt sách - tôi dùng từ này một cách trìu mến, anh Kent cực kỳ ổn - với tình yêu dành cho trò chơi điện tử. Anh ấy bắt đầu đầu tư vào một số công ty sản xuất những trò chơi này, và những khoản đầu tư ấy kiếm bộn. Mẹ tôi thì bảo anh ấy bàn tay vàng còn bố tôi nói anh ấy chẳng qua lù đù ăn may, nhưng thực ra đều chẳng phải. Anh ấy am hiểu lĩnh vực đó, vậy thôi, và cái gì anh ấy không am hiểu thì anh ấy quyết tâm học hỏi. Hồi họ kết hôn dạo cuối thập niên bảy mươi, họ mới chỉ hơi giàu thôi. Sau đó thì Kent phát hiện ra Microsoft.”

Cô ngửa đầu ra sau và bật ra một tràng cười sặc sụa, làm ông giật mình.

“Xin lỗi,” cô nói. “Chỉ là tôi đang nghĩ đến cái cảnh trớ trêu đậm chất Mỹ ấy. Hồi ấy tôi thì xinh đẹp, tính tình xởi lởi và dễ gần. Tôi mà tham gia thi sắc đẹp - mà tôi vẫn gọi là khoe thịt cho đám đàn ông, nếu ông muốn biết, mà chắc là không nhỉ - hẳn tôi đã giành giải Hoa hậu Thân thiện dễ ợt. Rất nhiều bạn gái, rất nhiều bạn trai, rất nhiều điện thoại, và rất nhiều hẹn hò. Hồi cuối cấp ở trường trung học Công giáo, tôi phụ trách định hướng cho các em học sinh mới, và tôi đã làm rất giỏi, cho dù là tự tôi nhận xét về mình. Tôi đã khích lệ rất nhiều đứa. Chị tôi cũng xinh chẳng kém, nhưng chị ấy lại bị căng thẳng thần kinh. Chị ấy bị rối loạn làm ảnh cưỡng bức. Nếu mà có đi thi hoa hậu thì chắc chị ấy sẽ nôn hết ra khắp cả bộ đồ tắm rồi ấy chứ.”

Janey bật cười tiếp. Một giọt nước mắt nữa lăn xuống má trong lúc cô cười. Cô lấy mu bàn tay lau nó đi.

“Trớ trêu là thế. Hoa hậu Thân thiện thì bập ngay vào thằng dở người nghiện ngập còn Hoa hậu Thần kinh thì lại gặp người tốt, người chồng kiếm ra tiền mà lại không lăng nhăng. Ông hiểu không?”

“Vâng,” Hodges nói. “Tôi hiểu.”

“Olivia Wharton và Kent Trelawney. Một cuộc tìm hiểu với cơ hội thành công tương đương đứa trẻ sinh non sáu tháng. Kent mời chị ấy đi chơi hết lần này đến lần khác còn chị ấy thì liên tục nói không. Cuối cùng chị ấy cũng đồng ý đi ăn tối với anh ấy - theo chị ấy nói là để anh ấy thôi không làm phiền nữa - và khi họ đến nhà hàng thì chị ấy cứng đờ người. Không thể nào ra khỏi xe được. Run bần bật như một chiếc lá. Những người khác hẳn đã bỏ cuộc ngay lúc ấy, nhưng Kent thì không. Anh ấy đưa chị đến MCDONALD’S và gọi suất Value Meal ở cửa lái xe qua. Họ ăn trong bãi đỗ xe. Tôi nghĩ chắc họ toàn ăn kiểu ấy. Chị tôi cũng đi xem phim với anh ấy, nhưng bao giờ cũng phải ngồi cạnh lối đi. Chị ấy bảo ngồi phía trong khiến chị ấy bị ngộp thở.”

“Một quý cô với rất nhiều yêu sách.”

“Bố mẹ tôi mất bao nhiêu năm cố gắng thuyết phục chị ấy đi gặp bác sĩ tâm thần. Họ thất bại còn Kent lại thành công. Bác sĩ kê đơn thuốc cho chị ấy, và chị ấy đỡ dần. Chị ấy lên một cơn căng thẳng thần kinh kịch phát đã thành thương hiệu đúng vào ngày cưới - tôi là người giữ tấm mạng váy cưới trong lúc chị ấy nôn trong nhà vệ sinh của nhà thờ - nhưng rồi chị ấy cũng qua được.” Janey mỉm cười với vẻ tư lự và nói thêm, “Chị ấy là một cô dâu xinh đẹp.”

Hodges ngồi lặng yên, ngỡ ngàng với một thoáng hình bóng cũ của Olivia Trelawney trước khi trở thành Quý bà Áo Cổ Thuyền.

“Sau khi chị ấy lấy chồng, chúng tôi xa cách dần. Như các chị em gái thường thế. Chúng tôi gặp nhau năm bảy lần một năm cho đến khi bố chúng tôi qua đời, sau đó thì thưa thớt hơn.”

“Lễ Tạ ơn, Giáng sinh, và ngày 4 tháng Bảy?”

“Cơ bản thế. Tôi có thể thấy là một số vấn đề ngày trước của chị ấy tái phát, và sau khi anh Kent mất - do một cơn đau tim - thì tất cả đều quay lại như cũ. Chị ấy sụt cân cả tấn. Chị ấy quay về với những bộ quần áo kinh khủng mà chị ấy mặc hồi trung học và dạo còn làm việc ở văn phòng. Tôi đã thấy chúng khi về nhà thăm chị ấy và mẹ, hay khi chúng tôi nói chuyện trên Skype.”

Ông gật đầu ra vẻ hiểu. “Tôi có một người bạn cứ nài nỉ bắt tôi dùng thử cái đó suốt.”

Cô mỉm cười nhìn ông. “Ông thuộc trường phái cổ điển phải không? Ý tôi là thực sự cổ ấy.” Nụ cười của cô tan đi. “Lần cuối cùng tôi gặp Ollie là tháng Năm năm ngoái, không lâu sau chuyện ở City Center.” Janey ngần ngừ, rồi gọi nó bằng cái tên thích hợp. “Vụ thảm sát. Tình trạng của chị ấy thật kinh khủng. Chị ấy nói cảnh sát đang đeo bám chị ấy. Có đúng không?”

“Không, nhưng bà ấy nghĩ là có. Quả thật chúng tôi có hỏi bà ấy nhiều lần, bởi vì bà ấy cứ khăng khăng là đã rút chìa khóa và khóa chiếc Mercedes. Đó là một vấn đề cho chúng tôi, vì chiếc xe không bị cạy phá và cũng không bị đấu dây khởi động. Nên cuối cùng chúng tôi kết luận…” Hodges ngừng lại, trong đầu nghĩ đến tay bác sĩ tâm lý gia đình béo ú xuất hiện lúc bốn giờ chiều các ngày trong tuần. Thằng cha chuyên gia về phá vỡ bức tường phủ nhận.

“Cuối cùng các ông kết luận gì cơ?”

“Rằng bà ấy không đủ can đảm đối diện với sự thật. Nghe có giống người chị gái mà cô đã cùng lớn lên không?”

“Có.” Janey trỏ vào bức thư. “Ông có cho rằng cuối cùng chị ấy cũng nói sự thật với tên này không? Trên trang Chiếc Ô Xanh của Debbie? Ông có nghĩ đó là lý do chị ấy uống thuốc của mẹ không?”

“Không có cách nào để biết chắc cả.” Nhưng trong thâm tâm Hodges nghĩ nhiều khả năng là thế.

“Chị ấy bỏ dùng thuốc chống trầm cảm.” Janey lại nhìn ra mặt hồ. “Chị ấy phủ nhận điều đó khi tôi hỏi, nhưng tôi biết. Chị ấy chưa bao giờ thích chúng cả, bảo là chúng làm chị ấy thấy lơ mơ đầu óc. Chị ấy dùng thuốc vì Kent, và sau khi Kent mất thì chị ấy dùng thuốc vì mẹ, nhưng sau vụ City Center…”

Cô lắc đầu hít một hơi sâu. “Tôi kể với ông về tình trạng tâm thần của chị ấy như thế là đủ chưa, Bill? Vì vẫn còn nhiều điều nữa nếu ông muốn nghe.”

“Tôi nghĩ là mình hình dung được rồi.”

Cô lắc đầu với vẻ băn khoăn ngơ ngẩn. “Cứ như thể tên hung thủ biết rõ chị ấy vậy.”

Hodges không nói ra điều dường như đã hiển nhiên đối với ông, cơ bản là vì ông đã có bức thư của riêng mình để so sánh: hắn biết. Bằng cách nào đó hắn biết.

“Cô nói bà ấy bị rối loạn làm ảnh cưỡng bức. Đến mức bà ấy đã quay xe và về nhà kiểm tra lò nướng còn bật hay không.”

“Vâng.”

“Cô thấy có khả năng nào mà người phụ nữ như thế lại quên chìa trong ổ không?”

Janey không trả lời hồi lâu. Sau đó cô nói, “Thực ra là không.”

Hodges cũng không nghĩ thế. Tất nhiên là chuyện gì cũng có lần đầu tiên, nhưng… ông và Pete có bao giờ bàn đến khía cạnh đó của vấn đề không nhỉ? Ông không chắc lắm, nhưng nghĩ có lẽ họ đã có. Chỉ phải cái là họ không hề biết mức độ nghiêm trọng trong các vấn đề tâm thần của bà T., phải thế không?

Ông hỏi, “Cô đã thử lên trang Ô Xanh đó chưa? Dùng tài khoản mà hắn tạo cho bà ấy?”

Cô tròn mắt nhìn ông, ngỡ ngàng. “Điều đó thậm chí còn chưa bao giờ xuất hiện trong suy nghĩ của tôi, mà nếu có thì chắc hẳn tôi cũng quá sợ hãi với những gì tôi có thể tìm thấy ở đó. Tôi cho rằng đó là lý do tại sao ông là thám tử còn tôi là khách hàng. Ông sẽ thử chứ?”

“Tôi không biết sẽ thử gì nữa. Tôi cần suy nghĩ về chuyện này, và tôi cần tham khảo một người biết nhiều về máy tính hơn tôi.”

“Nhớ đảm bảo là ông để ý đến tiền thù lao cho anh ta,” nàng nói.

Hodges nói là ông sẽ để ý, trong đầu nghĩ ít nhất thì Jerome Robinson cũng sẽ nhận được đôi điều hay ho từ chuyện này, dù mọi sự có diễn biến thế nào đi nữa. Và sao lại không chứ? Tám người chết ở City Center và thêm ba người nữa tàn tật cả đời, nhưng Jerome thì vẫn vào đại học cơ mà. Hodges nhớ đến một câu thành ngữ cổ: Việc ai người ấy làm, đèn nhà ai nhà nấy rạng.

“Tiếp theo đây là gì?”

Hodges cầm bức thư và đứng lên. “Tiếp theo, tôi mang cái này ra cửa hàng UCOPY gần nhất. Sau đó tôi trả cô bản gốc.”

“Đâu cần phải làm thế. Tôi sẽ quét nó vào máy tính và in cho ông một bản. Đưa đây.”

“Thật à? Cô làm được không?”

Mắt cô vẫn còn đỏ hoe vì khóc, dù vậy ánh mắt liếc nhìn ông vẫn lóe lên vẻ đùa cợt. “Cũng may là ông có một chuyên gia máy tính mà nhờ vả,” cô nói. “Tôi quay lại ngay. Trong lúc ấy, ăn thêm một chiếc bánh nữa đi.”

Hodges làm luôn ba chiếc.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.