[Dịch] Tên Sát Nhân Mercedes - Mr. Mercedes

Quyển 2 - THANH TRA VỀ HƯU-Chương 19 : THANH TRA VỀ HƯU 2.18




Chiếc xe chết chóc được đưa về Bãi Giam Xe của Cảnh sát trên một chiếc xe tải, vẫn khóa nguyên. Hodges và Huntley nhận được thông tin cập nhật này khi họ quay lại xe. Tay thợ chính của Ross Mercedes vừa mới đến nơi, và rất quả quyết rằng anh ta có thể mở khóa cái cửa chết tiệt đó. Không sớm thì muộn.

“Bảo anh ta khỏi mất công làm gì,” Hodges nói. “Chúng tôi có chìa khóa của bà ấy rồi.”

Có một thoáng im lặng ở đầu bên kia, sau đó Trung úy Morrissey nói, “Vậy à? Anh không định nói là bà ta…”

“Không, không, không có chuyện ấy đâu. Tay thợ sửa xe có đứng cạnh đó không, Trung úy?”

“Anh ta đang ở trong bãi, xem xét hỏng hóc của chiếc xe. Thấy bảo là suýt nữa thì khóc.”

“Có lẽ anh ta muốn để dành một hai giọt cho những người chết,” Pete nói. Anh ta đang lái xe. Cần gạt nước lia qua lia lại. Mưa mỗi lúc một nặng hạt. “Nói vậy thôi.”

“Bảo anh ta liên lạc với đại lý và kiểm tra một thứ,” Hodges nói. “Sau đó bảo anh ta gọi vào máy di động cho tôi.”

Giao thông kẹt cứng khi vào trung tâm, một phần vì trời mưa, một phần vì phố Marlborough bị phong tỏa ở đoạn City Center. Họ mới đi được bốn khối phố thì điện thoại của Hodges đổ chuông. Đó là Howard MCGRORY, tay thợ sửa xe.

“Anh có bảo người đại lý kiểm tra thông tin mà tôi tò mò không vậy?” Hodges hỏi anh ta.

“Không cần,” MCGRORY nói. “Tôi làm ở Ross từ năm 1987. Chắc phải chứng kiến cả ngàn cái Merc ra khỏi cửa từ hồi đấy đến giờ, và tôi có thể nói với ông rằng tất cả chúng đều đi ra với hai chìa khóa.”

“Cảm ơn,” Hodges nói. “Chúng tôi sẽ sớm đến đó. Có thêm vài câu hỏi cho anh đấy.”

“Tôi vẫn ở đây thôi. Chuyện này thật khủng khiếp. Khủng khiếp.” Hodges tắt máy và truyền đạt lại những gì MCGRORY vừa nói.

“Anh có ngạc nhiên không?” Pete hỏi. Phía trước là một Cái biển đường vòng màu cam hướng dẫn họ đi vòng quanh City Center… trừ phi họ muốn bật đèn hụ lên, mà không ai muốn cả. Điều họ cần lúc này là nói chuyện.

“Không,” Hodges nói. “Đó là quy trình chuẩn mực. Giống như dân Anh vẫn nói, một kế vị và một dự bị. Họ đưa cho anh hai cái chìa khi anh mua xe mới…”

“… và nhắc anh cất một cái vào nơi an toàn, như vậy anh có cái mà sờ đến khi làm mất cái anh mang theo người. Một số người, đến lúc cần cái chìa dự phòng sau một hoặc hai năm, họ đã quên béng mất đã để nó ở đâu. Những người phụ nữ mang xắc tay lớn - như cái vali mà cái bà Trelawney kia mang - thường tống cả hai chìa khóa vào đó và quên mất cái chìa dự phòng. Nếu bà ta nói thật về việc không gắn nó vào móc đeo chìa khóa, thì có khi trước giờ bà ta vẫn dùng hoán đổi hai chìa.”

“Đúng vậy,” Hodges nói. “Bà ta đến nhà mẹ mình, bà ta mải bận tâm nghĩ về việc dành một đêm nữa xoay xở với cơn đau của bà mẹ, bà ta vật lộn với những cái hộp và cái xắc…”

“Và bỏ chìa khóa trong ổ. Bà ta không muốn thừa nhận điều đó - với chúng ta cũng như với chính bản thân mình - nhưng đó là điều bà ta đã làm.”

“Mặc dù đã có âm thanh cảnh báo…” Hodges nói vẻ băn khoăn.

“Có thể một chiếc xe tải lớn ồn ào chạy qua đúng lúc bà ta ra khỏi xe và bà ta không nghe thấy tín hiệu cảnh báo. Hoặc một chiếc xe cảnh sát, đang hú còi. Hoặc có thể bà ta đang đắm chìm trong những ý nghĩ của mình nên không để ý.”

Giải thích như vậy nghe hợp lý vào lúc đó và thậm chí sau này còn hợp lý hơn khi MCGRORYCHO họ biết rằng chiếc xe chết chóc đã không hề bị cạy mở hoặc bị đấu nối để khởi động. Điều khiến Hodges nghĩ ngợi - thực sự, đó là điều duy nhất làm ông nghĩ ngợi - là việc ông muốn cách giải thích đó hợp lý đến nhường nào. Chẳng ai trong họ ưa bà Trelawney, cái bà mặc áo cổ thuyền có cặp lông mày tỉa tót hoàn hảo và điệu cười gượng gạo the thé. Cái bà Trelawney chưa hề hỏi han tin tức gì của những người chết và bị thương, dù chỉ một chi tiết nhỏ. Bà ta không phải là thủ phạm - chẳng đời nào lại là bà ta - nhưng cũng hay đấy nếu gắn bà ta với một phần trách nhiệm. Cho bà ta điều gì đó mà suy nghĩ đến ngoài những bữa tối chay tịnh của nhà hàng B’hai.

“Đừng phức tạp hóa vấn đề lên thế,” cộng sự của ông lặp lại. Giao thông tắc nghẽn đã được giải tỏa và anh ta nhấn sâu chân ga. “Bà ta được đưa cho hai cái chìa khóa. Bà ta khăng khăng mình chỉ có một chìa. Và bây giờ thì đúng là như thế thật. Tên khốn giết người kia đã ném cái chìa bà ta bỏ lại trong ổ khóa khi xuống một cái cống nước thuận tiện nào đó lúc hắn trốn đi. Cái bà ta đưa cho chúng ta chính là chìa dự phòng.”

Câu trả lời nhất định phải là như vậy. Nghe tiếng vó câu có ai nghĩ đến ngựa vằn bao giờ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.