[Dịch] Tên Sát Nhân Mercedes - Mr. Mercedes

Quyển 2 - THANH TRA VỀ HƯU-Chương 17 : THANH TRA VỀ HƯU 2.16




Buổi thẩm vấn đầu tiên quan trọng ấy diễn ra chỉ vài giờ sau khi vụ án xảy ra. Cà phê và bánh trong lúc những thi thể nát bấy của người chết vẫn còn đang được xác minh danh tính. Ở đâu đó những người thân đang khóc lóc và giằng xé quần áo.

Bà Trelawney bước vào gian sảnh trước của căn hộ, chiếc túi xách của bà ta được đặt trên một chiếc bàn nằm chơ vơ ở đó.

Bà ta mang chiếc túi lại, lục lọi, bắt đầu nhíu mày, rồi vẫn lục lọi bắt đầu tỏ ra hơi lo lắng. Rồi mỉm cười. “Nó đây,” bà ta nói, và chìa nó ra.

Các viên thanh tra nhìn chiếc chìa khóa thông minh, Hodges nghĩ trông nó thật bình thường với tư cách là món đồ đi kèm chiếc xe đắt tiền đến thế. Về cơ bản nó là một mẩu nhựa màu đen với cái cục to ở một đầu. Đầu này có logo của hãng Mercedes in trên một mặt. Trên mặt còn lại là ba nút bấm. Một nút có hình ổ khóa với phần chết đã đóng xuống. Trên chiếc nút bên cạnh, phần chết của ổ khóa được nhấc lên. Chiếc nút thứ ba đề chữ PANIC. Đại loại là nếu một tên du côn tấn công bạn đúng lúc bạn đang mở khóa xe, bạn có thể bấm nút đó và chiếc xe sẽ hú lên gọi giúp đỡ.

“Tôi có thể thấy tại sao bà gặp chút rắc rối khi tìm nó trong xắc tay của mình,” Pete nhận xét bằng cái giọng chỉ-là-nói-vu-vơ-cho-hết-thời-gian-trong-ngày tuyệt đỉnh của anh ta. “Hầu hết mọi người đều gắn chìa khóa vào một cái móc. Vợ tôi gắn chìa khóa vào một bông cúc nhựa to đùng.” Anh ta mỉm cười dịu dàng như thể Maureen vẫn còn là vợ mình, và cứ như thể là cô nàng tín đồ thời trang khoe hàng hoàn hảo ấy chịu để bị bắt quả tang đang hì hụi lôi một bông cúc nhựa ra khỏi xắc tay.

“Thật là tiện cho cô ấy quá!” bà Trelawney nói. “Khi nào thì tôi có thể mang xe về được?”

“Điều đó không phụ thuộc vào chúng tôi, thưa bà,” Hodges nói.

Bà ta thở dài và dựng thẳng phần cổ thuyền của chiếc váy. Đó là lần đầu tiên trong số hàng chục lần họ thấy bà ta làm cử chỉ đó. “Tôi sẽ phải bán nó đi, tất nhiên rồi. Sau chuyện này, tôi sẽ không bao giờ lái nó được nữa. Thật đáng sợ. Cứ nghĩ xe của tôi…”, Lúc này, khi đã có chiếc xắc trên tay, bà ta lại khua khoắng và lôi ra một tập khăn giấy Kleenex. Bà ta lấy chúng chấm chấm lên mắt. “Thật đáng sợ quá.”

“Tôi đề nghị bà trình bày lại cho chúng tôi một lượt nữa.”

Bà ta nhướng cặp mắt, viền đỏ hoe và vằn máu. “Có thực sự cần thiết phải thế không? Tôi kiệt sức rồi. Tôi đã thức cả đêm với mẹ tôi. Mãi đến bốn giờ sáng bà ấy mới thiếp đi được. Bà ấy bị đau ghê lắm. Tôi muốn chợp mắt một lúc trước khi bà Greene đến. Bà ấy là y tá.”

Hodges nghĩ bụng, Xe của bà vừa mới được dùng làm hung khí giết chết tám người, và chỉ là tám trong trường hợp tất cả những người khác sống sót, vậy mà bà còn muốn chợp mắt cơ đấy. Sau này, ông không dám chắc liệu đó có phải là thời điểm ông bắt đầu không ưa bà Trelawney hay không, nhưng có lẽ là vậy. Khi một số người gặp đau khổ, bạn muốn ôm lấy họ và nói được rồi-được rồi trong lúc bạn vỗ về lưng họ. Với những người khác, bạn lại chỉ muốn táng cho họ một cái tát vỡ nát mặt và bảo họ đàn ông đàn ang lên. Hoặc, trong trường hợp của bà T., là đàn bà con gái lên.

“Chúng tôi sẽ làm nhanh hết sức,” Pete hứa hẹn. Anh ta không nói cho bà T. biết rằng đây mới chỉ bà khởi đầu của rất nhiều cuộc thẩm vấn. Đến lúc họ xong việc thì bà ta sẽ nghe thấy chính mình đang cho lời khai ngay cả trong giấc ngủ.

“Ôi, vậy thì tốt rồi. Tôi đến chỗ mẹ tôi lúc hơn bảy giờ tối thứ Năm…”

Bà ta ghé thăm ít nhất bốn lần mỗi tuần, bà ta cho biết, bà ta ngủ lại vào các ngày thứ Năm. Lần nào bà ta cũng dừng ở B’hai, một nhà hàng đồ chay rất tuyệt nằm trong Birch Hill Mall, và mua đồ ăn tối của họ, rồi hâm nóng lại trong lò. (Mặc dù bây giờ mẹ tôi ăn ít lắm, tất nhiên rồi. Vì bị đau.) Bà Trelawney cho họ biết là bao giờ bà ta cũng căn các chuyến đi tối thứ Năm của mình để đến nơi sau bảy giờ, vì đó là thời điểm bắt đầu cho đỗ xe cả đêm, và hầu hết các khoảng trống bên đường còn bỏ không. “Tôi không đỗ song song đâu. Tôi chịu không làm nổi.”

“Thế còn cái garage ở cuối phố thì sao?” Hodges hỏi.

Bà ta nhìn Hodges như thể ông bị điên. “Đỗ xe qua đêm ở đó tốn mười sáu đô la. Đỗ xe ngoài đường thì miễn phí.”

Pete vẫn đang cầm chìa khóa, mặc dù anh ta chưa nói với bà Trelawney là họ sẽ mang nó đi. Bà dừng lại ở Birch Hill và đặt đồ ăn mang về cho bà và mẹ mình tại… Anh ta kiểm tra sổ ghi chép. “B’hai.”

“Không, tôi đặt trước. Từ nhà tôi đường Lilac. Bao giờ họ cũng vui khi nghe tôi gọi điện. Tôi là một khách hàng lâu năm quan trọng. Tối hôm qua thì là món kookoo sabzi cho mẹ - đó là món trứng ốp thảo mộc với rau chân vịt và rau mùi tây - và món gheymeh cho tôi. Gheymeh là món hầm rất ngon với đậu, khoai tây và nấm. Rất dễ chịu cho dạ dày.” Bà ta dựng thẳng cổ váy. Tôi bị trào ngược dạ dày rất nặng từ hồi còn thanh niên. “Phải học cách sống chung với lũ thôi.”

“Tôi đoán đồ ăn bà đặt…” Hodges bắt đầu.

“Và món sholeh zard tráng miệng,” bà ta bổ sung. “Đó là món chè gạo với quế. Và nhụy hoa nghệ tây.” Bà ta nhoẻn cười ngượng ngập theo kiểu lạ lùng của mình. Giống như cái thói dựng thẳng cổ thuyền của váy, kiểu cười ấy cũng là một đặc trưng kiểu cách Trelawney mà họ sẽ rất quen thuộc. “Chính nhụy hoa nghệ tây là thứ khiến nó trở nên đặc biệt. Ngay cả mẹ tôi bao giờ cũng ăn sholeh zard.”

“Nghe ngon quá,” Hodges nói. “Và đồ ăn bà đặt, chúng được cho vào hộp và để sẵn khi ba đến đó?”

“Vâng.”

“Một hộp?”

“Ồ không, ba.”

“Trong một chiếc túi?”

“Không, chỉ có những chiếc hộp thôi.”

“Thế thì chắc phải lỉnh kỉnh lắm nhỉ, lôi tất cả những thứ đó ra khỏi xe,” Pete nói. “Ba hộp đồ ăn, rồi lại túi xách…”

“Còn chìa khóa nữa,” Hodges nói. “Đừng quên cái đó chứ, Pete.”

“Ấy mà bà còn muốn mang nó lên nhà càng sớm càng tốt,” Pete nói. “Thức ăn mà nguội thì còn ngon lành gì.”

“Tôi hiểu các ông định dẫn dắt chuyện này đến đâu,” bà Trelawney nói, “và tôi đảm bảo với các ông…” Một thoáng ngập ngừng. “… với các quý ông đây rằng các ông đi nhầm hướng rồi. Tôi đã cho chìa khóa vào xắc tay ngay sau khi tôi tắt động cơ, đó là việc đầu tiên mà tôi luôn làm. Còn về mấy cái hộp, chúng được buộc vào nhau thành một chồng…” Bà ta đưa hai bàn tay lên cách nhau gần nửa mét để diễn tả. “… vì vậy mang chúng rất dễ đàng. Tôi khoác cái xắc dưới cánh tay. Nhìn nhé. Bà ta gập cánh tay lại, mắc cái xắc lên đó, rồi bước quanh căn phòng khách rộng thênh thang, tay vẫn giữ một chồng hộp vô hình của B’hai. “Thấy không?”

“Vâng, thưa bà,” Hodges nói. Ông nghĩ mình còn thấy một điều khác nữa.

“Về chuyện vội vàng - thì không. Không cần thiết, vì đồ ăn tối đằng nào cũng phải hâm nóng lại.” Bà ta ngừng lại. “Tất nhiên là món sholeh zard thì không. Không cần hâm nóng món chè gạo.” Bà ta khẽ bật cười. Không phải cười khúc khích, Hodges nghĩ bụng, mà một tiếng cười gượng. Trong hoàn cảnh là chồng bà ta đã mất, ông tự nhủ, thậm chí còn có thể gọi đó là một tiếng cười góa gượng. Nỗi ác cảm trong ông lại bồi thêm một lớp - một lớp mỏng đến mức cơ hồ vô hình, nhưng cũng không hẳn. Không, không được đến thế.

“Vậy tôi xin phép tóm lược lại những hành động của bà từ sau khi bà đến chỗ đại lộ Lake này,” Hodges nói. “Bà đến nơi lúc bảy giờ hơn.”

“Vâng. Bảy giờ năm phút, có thể là hơn một chút.”

“Ừm. Bà đậu xe… chỗ nào nhỉ? Cách đó ba bốn số nhà?”

“Cùng lắm là bốn. Tất cả những gì tôi cần là hai khoảng trống, để tôi có thể tấp xe vào mà không cần lủi. Tôi ghét lùi xe. Lần nào tôi cũng sai hướng.”

“Vâng, thưa bà, vợ tôi cũng gặp vấn đề giống hệt như thế.” Bà tắt máy. Bà rút chìa khóa ra khỏi ổ và cho nó vào xắc tay.

Bà khoác xắc dưới cánh tay và cầm những cái hộp đồ ăn lên…

“Chồng hộp. Được buộc vào với nhau bằng dây dai và chắc.”

“Một chồng hộp, đúng rồi. Và sau đó?”

Bà ta nhìn Hodges như thể ông là kẻ ngu ngốc nhất trong tất cả những thằng ngu ngốc trên cái thế gian nói chung là ngu ngốc này. “Sau đó thì tôi vào tòa nhà nơi mẹ tôi đang sống. Bà Harris - người trông nhà, ông biết đấy - bấm cửa cho tôi vào. Vào các thứ Năm thì bà ấy ra về sau khi tôi đến. Tôi đi thang máy lên tầng mười chín. Chính là cái chỗ mà các ông đang tra hỏi tôi thay vì cho tôi biết khi nào tôi có thể nhận lại cái xe của tôi. Cái xe bị ăn cắp của tôi.”

Hodges thầm ghi nhớ trong đầu là phải hỏi bà giúp việc xem bà này có để ý thấy chiếc Mercedes của bà T. lúc ra về hay không.

Pete hỏi, “Đến thời điểm nào thì bà lại lấy chìa khóa ra khỏi xắc một lần nữa, thưa bà Trelawney?”

“Lại lấy? Tại sao tôi phải…”

Anh ta giơ chiếc chìa khóa lên - bằng chứng A. “Để khóa xe trước khi bà vào tòa nhà. Bà có khóa xe chứ, đúng không?”

Một thoáng lúng túng vụt hiện lên trong mắt bà ta. Họ đều nhìn thấy. Và rồi nó biến mất. Tất nhiên là có Hodges đeo chặt lấy ánh mắt của bà ta. Ánh mắt đó lảng đi, về phía khung cảnh mặt hồ bên ngoài khung cửa sổ lớn, và ông lại túm được nó. “Hãy nghĩ thật kỹ, bà Trelawney. Nhiều người đã chết, và đây là chuyện quan trọng. Bà có nhớ chắc chắn việc phải tung hứng những hộp đồ ăn này để có thể lấy chìa khóa ra khỏi xắc và bấm nút KHÓA không? Và nhìn thấy đèn pha trước nháy lên xác nhận. Quy trình là thế, bà biết đấy.”

“Tất nhiên là tôi biết.” Bà ta cắn môi dưới, rồi nhận ra mình đang làm điều đó, bèn dừng phắt lại.

“Bà có nhớ cụ thể chi tiết đó không?”

Trong một thoáng mọi biểu cảm biến mất khỏi gương mặt bà ta. Rồi nụ cười kẻ cả ấy lại bừng lên với tất cả vẻ oai vệ khó chịu. “Chờ đã. Giờ thì tôi nhớ rồi. Tôi cho chìa khóa vào trong xắc sau khi tôi lấy những chiếc hộp và bước ra. Và sau khi tôi bấm nút khóa xe.”

“Bà chắc chắn,” Pete nói.

“Vâng.”

Bà ta chắc chắn thật, và sẽ mãi quả quyết như vậy. Họ đều biết điều đó. Kiểu mà một công dân tử tế đâm xe và bỏ chạy sẽ nói, khi cuối cùng hắn cũng bị lần ra, rằng tất nhiên hắn chỉ đâm một con chó.

Pete gập cuốn sổ ghi chép lại và đứng lên. Hodges cũng làm như vậy. Bà Trelawney tỏ vẻ vô cùng hăm hở khi hộ tống họ ra cửa.

“Thêm một câu hỏi nữa,” Hodges nói khi họ ra đến cửa. Bà ta nhướng cặp lông mày được tỉa tót kỹ càng. “Vâng?”

“Chìa khóa dự phòng của bà đâu? Chúng tôi phải lấy cả cái đó nữa.”

Lần này thì không có ánh mắt ngơ ngác, đôi mắt không hề đảo qua lại, không chút lưỡng lự. Bà ta nói, “Tôi không có chìa khóa dự phòng, và không cần phải có. Tôi rất cẩn thận với đồ của mình, thưa ngài thanh tra. Tôi đã sở hữu Bà đầm Xám của mình - đó là cách tôi gọi nó - năm năm, và chiếc chìa khóa duy nhất tôi dùng từ đó đến giờ là cái đang ở trong túi cộng sự của ông.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.