Khoảng giờ tỵ thì chợ tan, đường bán hết, dầu còn lại hơn hai ống tre, như vậy là tốt rồi, khi người ta dùng quen sẽ mua tiếp. Lui ghe ra ngoài, cha nương đều chèo, giờ là ngược dòng nên sẽ mệt hơn. Lần trước nương và An ca đi đò chú Bàng ở bên kia sông phải chờ đến đầu giờ ngọ, nước đứng mới về.
Các nhà khác cũng lần lượt ra về, nhà thím Bô Pha rất vui vẻ, chắc bán được giá. Chú Chau Rui làm thợ mộc nhưng không phải dựng nhà, đóng tủ bàn ghế mà thúc ấy làm mấy món đồ mộc nhỏ như chày, cối, chén, bình trà hoặc mấy đồ trang sức trâm, lược, vòng tay. (đọc chương mới tại dienvan.space) Sáng nay mấy bà mấy cô đều xem mấy món được bày bán, gỗ mài bóng loáng, nhẵn mịn thật công phu, thật khéo léo.
Bữa cơm trưa ăn trên ghe gió thổi mát rượi, đàn ong bu quanh bông đước, mấy con cò trắng chân khẳng khiu cao nhòng sục cái mỏ dài xuống lớp đất bùn tìm thức ăn. Mấy con khác nhỏ hơn thì tìm thức ăn dưới gốc đước. Có đoạn đi qua một khoảng đất rộng mênh mông đang trồng lúa, lúa sạ hơn mười ngày đã lên cây mạ non, lá xanh biếc.
– Đồng này là của ông phú hộ Hồ Tảng, kéo dài xuống chợ Ba Nhỏ. Mấy năm trúng mùa lúa không có chỗ phơi đó.
Thấy Mai và An ca nhìn, thím Bô Pha bên kia giải thích.
– Có thuê người làm không?
Nương hỏi thăm.
– Có, nhà phú hộ có ba trai một gái làm sao làm hết. Mấy hôm trước thuê người sạ lúa nữa. Mùa gặt chắc phải thuê rồi.
Nhìn xa xa thấy gian nhà lớn, mái ngói đỏ thấp thoáng bị che mất bởi mấy cây cau, thốt nốt cao chót vót.
– Trong nhà có cặp ngà voi với hai bức liễn gỗ khắc đẹp, chắc thợ trên kinh làm.
Chú Chau Rui nói như than thở, ngưỡng mộ. Hai bức liễn chắc rất đặc sắc nên chú ấy mới vừa khen vừa ganh tỵ.
– Chú có chạm đồ cho nhà phú hộ đó sao?
Đường dài có người kể chuyện nghe cũng thích.
– Có, lần đó kêu ta làm bộ chén muỗng gỗ hương sáu cái, mất gần tháng mới xong.
Chuyện này nối tiếp chuyện kia, đến gần chợ nhỏ thì hai ghe tách ra. Mai chui vào mui:
– Nương, để An ca tính tiền đi. Ca ấy đếm nhanh lắm, ha ha.
Lúc dạy làm toán, tính tiền quả thật An ca nhanh nhất, lúc đầu còn dùng que tre, bây giờ thì một hai trăm văn đều tính nhẩm đươc.
A An thấy nương cười nên vào mui đổ túi tiền ra rổ, hắn đếm, xâu lại thành xâu, tính tính rồi hỏi:
– Nương mua thịt hết một tram năm mươi văn sao?
– Ừ,
– Vậy hôm nay nhà mình còn ba trăm hai mươi tám văn.
– Ghe như này giá bao nhiêu cha?
Mai nghĩ nghĩ hỏi, nếu nhà mình có ghe thì tốt biết mấy, sẽ đỡ vất vả hơn nhiều.
– Hơn hai mươi quan (1), người ta mới đóng.
A, theo Mai tính nhẩm mấy lần bán đường và tiền hôm nay, nhà mình có khoảng sáu quan, còn thiếu nhiều.
Qua giờ ngọ đã đến nhà, ở nhà có cậu mợ nên cha nương yên tâm, không lo lắng trong nhà không có người lớn.
Vừa buộc ghe xong a Phúc đã chạy ra.
– Cha nương sao giờ mới về. Con chờ lâu quá.
Nương mỉm cười vuốt đầu hắn,
– Mợ hai mua con gà trống to, nấu cháo, làm thịt kho nữa.
Đúng là ‘Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ’. An ca nháy mắt với Mai, cười trêu hắn.
– Ca thèm đùi gà quá, chút ca một cái, a Mai một cái, sáng giờ đi chợ đói bụng ghê!
A Phúc nghe vậy thì xịu mặt xuống, nhìn An ca, nhìn Mai.
– Vậy đệ, đệ, … ăn nhiều nhiều, nhóc nhăn mặt nghĩ xem chỗ nào nhiều thịt nhất.
An ca ôm nhóc đi vào nhà cười ha ha.
– Được, hôm nay cho a Phúc ăn nhiều thịt gà còn có nhiều thịt heo nữa,
– Thật?
– Đương nhiên rồi.
Cậu hai và Bình ca đang lột vỏ dừa khô, mợ và Cúc tỷ thì đang nấu nướng, dọn chén đũa trên sạp tre.
– Đang chờ mọi người về ăn cơm đây,
Cậu nghe tiếng nói An ca và a Phúc bước ra nói.
– Ca, sao không ăn trước.
– Về cùng ăn luôn, không sao.
Nương mang thịt ra bếp hỏi:
– Ta có mua thịt heo, định đổ bánh xèo, tẩu thấy sao?
– Hay để ngày mai đổ, hôm nay ăn thị gà đi, đã nấu xong rồi.
– Được, ăn xong ngâm gạo, đậu cũng kịp.
Ăn trưa trễ cộng với thức ăn ngon, ai cũng ăn nhiều hơn một chút, nói cười vui vẻ.
– Lúc sáng ta cũng tìm mua thịt heo mà không có, có hai nhà cũng muốn mua cúng gác Đòn Đông. Nghe nói mới dọn vào đây dựng nhà, từ từ ở đây sẽ đông đúc.
Mợ hai kể chuyện lúc sáng nghe ở chợ.
– Trên đường vô đây ca cũng nghe nói phía Lũng Kỳ, Tà Ten có nhà dời về đây, về ở làng Thạch.
Cậu hai góp lời, nghe nói gọi là làng Thạch vì làng đó dựa vào núi đá, dân cư đa số làm nghề chạm khắc đá. Chú Chau Rui cũng biết đục đá, nhưng chú thích chạm gỗ hơn.
Buổi chiều người lớn ra ruộng dặm lúa. Hôm trước mưa to làm khoảng đất trũng ngập nước, lúa mới gieo mầm không chịu được úng nên chết, cậu hai chỉ cha cách tỉa chỗ lúa mọc dày sang cấy mấy chỗ thưa hoặc chết.
Mấy đứa nhỏ cũng không ở nhà mà theo ra ruộng bắt ốc, có con ốc mang bọc trứng to hơn cả nó bu theo mấy bụi cây quanh bờ ruộng hoặc mấy chỗ ẩm ướt. Cậu hai còn chỉ cách làm bẫy vịt trời, cò nước. Nhưng vịt trời và cò nước thích nhất là kiếm ăn ở ven sông bãi bùn, trong ruộng có chim bìm bịp, chim cu nhỏ hơn, thịt không bao nhiêu.
Ven vũng Đông Hồ có mấy bãi đất bồi, cò vạc, vịt nước về rất nhiều. Chỉ là lớp bùn dày đi lún xuống tới đùi. Cha nương chỉ cho Bình ca xuống, mấy đứa nhỏ không được đi.
___________________________________________
(1): đơn vị tiền xưa: 1 tiền = 36 văn, 1 quan = 10 tiền = 360 văn. Tiền kẽm hoặc tiền đồng là chính. Có thỏi bạc 2 quan, 5 quan, 10 quan. Vàng nén có 1 nén là 50 quan, 1 nén 100 quan.