Chiến tranh không phải do lính mà chỉ là trò chơi may rủi.
Cô có thể dùng tâm trạng của người chơi để tham khảo chiến tranh, nhưng đến khi xảy ra chiến tranh thật thì cô không thể giả vờ hai vũ khí trong tay chẳng qua chỉ là hai nút bấm trên máy bay trong trò chơi, thương vong lên hàng tỉ cũng không phải chỉ là số liệu.
Ở thời đại của cô, bằng chứng về tội ác có liên quan đến Nhật Bản cũng không vì hận thù quốc gia mà giáo dục thế hệ bọn cô phải một lòng phụng quốc, để rồi đó con tính mạng người nước họ là cỏ rác là con kiến. Cho dù một ngày nào đó sẽ bị lên án vì đùa giỡn sinh mệnh, nhưng cũng chỉ áy náy vì chưa tận tụy đền đáp cho tổ quốc chứ không hề có tí cảm giác tội lỗi nào với cuộc sống của người khác.
Đây chính là điều mà thời đại và đất nước này trao cho nhân tính và đầu óc của cô, nên về cơ bản khác hẳn với chủ nghĩa quân phiệt đã giáo dục nên một Sakuma Ichiro.
Tội ác này quá sâu nặng. Trừ khi có một ngày cô biến thành Sakuma Ichiro, thì cô chắc chắn sẽ không hề do dự ấn hai nút này, để rồi sau khi sự sống trên hòn đảo cách xa nơi đây vạn dặm hóa thành tro thì mọi sự đã xong, mỉm cười nâng ly tận hưởng niềm vui chiến thắng của trò chơi.
Đáng tiếc quốc gia của cô không giáo dục cô trở thành cỗ máy giết người.
Không biết đây là may mắn hay bất hạnh nữa.
Sự nhân từ và đạo đức đã hằn sâu trong xương tủy sẽ không dễ dàng biến mất.
Chính vì nguyên nhân này mà Từ Thiếu Khiêm có thể hiểu được.
Nếu ngày nào đó cư dân trên hòn đảo kia phải trả giá vì tội lỗi của những kẻ chóp bu, khi hàng ngàn tòa nhà cao tầng bị sụp đổ, thành phố đầy xác chết trôi nổi, khi thiên hạ thái bình rộn rã ca múa trở nên hoang vu, kẻ sống phải sống nửa đời còn lại trong tàn phế dị biến; nếu như hành động của cô gây nên chấn động trên toàn thế giới, hàng ngàn người cứu hổ từ khắp nơi đổ xô đến khu vực phóng xạ để cứu người sống sót, vậy thì có bao nhiêu người vô tội sẽ bị cô hãm hại đây?
Trong khoảnh khắc cô bất chấp tất cả, mọi hậu quả đều do một mình cô gánh vác.
Đến lúc đó, chỉ sợ cô phải làm chuyện trái với lương tâm.
Hoặc là cô trở thành vị thánh nhân từ cao cả, hoặc biến thành một ác ma.
Lúc này cô đang vật lộn trong đau khổ, điều đó có nghĩa là trước thời điểm đó, nếu cô không thể biến mình thành một Sakuma thực sự, thì vào lúc cả đất nước bị hủy hoại đè nén vì cô, thì chắc chắn cô sẽ sụp đổ, sẽ bị phá hủy bởi chính mình.
Năm mươi phần trăm là tiêu chuẩn trung bình, thế nhưng một học trò chỉ đạt năm mươi phần trăm lại là người học trò kém nhất. Vì bọn họ không thể làm tròn được trách nhiệm và cũng không có dũng khí gánh vác thất bại.
Từ Thiếu Khiêm – người biết sử dụng “hạt nhân” để biến Trung Quốc trở nên bất khả chiến bại trong cuộc chạy đua vũ trang trong ít nhất hai thập kỷ, cũng phải thừa nhận việc sử dụng bạo lực trong chiến tranh là không hay, đại khái cũng không phải thần thánh gì.
Vì nhân nghĩa hay vì bác ái, tất cả đều bỏ đi.
Bây giờ anh chỉ là thầy của cô, anh không muốn tận mắt thấy cô bị chôn vùi trong sự chỉ trích và áy náy của bản thân.
“Một nhà vật lý nên dốc sức vì đất nước như thế nào?”
“Emphải hiểu trách nhiệm của mình và chịu đựng nỗi đau mà emphải chịu.”
“Đây là một con đường nguy hiểm.”
“Nếu đã lấy được lưỡi kiếm sắc bén khiến mọi người chỉ trích, thì em cũng phải gánh chịu cơn đau khi kiếm đâm xuyên tim.”
Đương nhiên cô không thể vừa là Lâm Trí, vừa là Sakuma Ichiro được.
Nhưng khi Từ Thiếu Khiêm cho cô thời gian ba giây suy nghĩ, câu trả lời của cô lại là:“Nếu không có cáchnào để tránh kết quả cuối cùng là trở thành đao phủ,thì em tình nguyện chụp túi cao su lên đầu mình.”
Đếu đó là câu trả lời cuối cùng của cô, vậy thì đó cũng sẽ là kết quả cuối cùng của cô.
Quay về từ viện vật lý, không biết đã có bao nhiêu đêm cô trằn trọc không ngủ nổi. Phòng cô quá yên tĩnh, chỉ vừa nhắm mắt là trong đầu lập tức tự tra hỏi một cách dồn dập. Thế là cô dứt khoát chuyển sang phòng cho khách, dưới phòng là nhà bếp, bên cạnh là phòng ăn; đêm đến, phòng máy móc chạy ro ro đến hai ba giờ sáng, rồi mấy giờ sau khi trời còn chưa sáng, những người hầu trong biệt thự sẽ rón rén chuẩn bị bữa sáng và báo chí, cách một bức tường, chỉ cần vểnh tai lên là có thể nghe thấy các cô ấy cười đùa chuyện trò, rất náo nhiệt.
Nhưng phòng cho khách cũng có điểm không tốt, đó là trên tường treo đầy tranh vẽ có chữ ký của danh nhân các nước. Khi trời vừa tối ánh trăng chiếu vào, cô lập tức cùng một vĩ nhân mắt to trừng mắt nhỏ, nếu may mắn thì có thể bị đôi mắt to như chuông đồng của bọn họ thôi miên mấy giờ liền.
Hai tuần sau, thấy cô sụt ký và vành mắt trở nên thâm đen, Tuệ Tế không nhịn được nói: “Khéo lễ phục đưa đến sẽ nhỏ hơn một cỡ mất.”
Rốt cuộc bà Cát cũng không chịu nổi: “Ông thầy kia không tới mà cháu buồn đến mức đó hả? Chuyện gì? Chuyện nhà hay chuyện học? Nếu là vì những chuyện này thì đúng là không phải quân tử độ lượng tài đức vẹn toàn.”
Cô đành nói, “Thầy ấy bị thương, phải ngồi xe lăn.”
Bà Cát không nói, một lúc sau mới hỏi: “Chỉ là nghi thức thôi mà. Người khác không được sao?”
Cô không biết phải trả lời thế nào. Nghi thức thôi, thật ra đều như nhau.
Ngày cưới đã đến gần, mọi người nhận được thiệp mời cũng dần đổ về Hương Cảng. Là đại diện duy nhất bên nhà mẹ cô dâu, biệt thự bà Cát chuẩn bị gian phòng cho khách lớn nhất dành riêng cho Lâm Tử Đồng và cô Hứa.
Trong vườn hoa ở dưới lầu luôn tổ chức tiệc chiêu đãi và hội mạt chược quy mô nhỏ. Vì diện mạo bất tiện của cô Hứa nên Lâm Tử Đồng chỉ có thể dự tiệc độc thân; rồi cũng vì hai người tổ chức quá hôn lễ nên không ít lần Lâm Tử Đồng bị các bà các cô âm thầm thăm dò ngày sinh và đã thành thân hay kia.
Sở Vọng cũng đã thấy ba người cậu trong truyền thuyết. Mẹ của cô thuộc lứa thứ hai, ngoài cậu cả đã trên 50 ra, hai ông cậu còn lại ai cũng có khí thế phong thái riêng, cậu hai khiến không ít cô gái xiêu lòng, còn cậu ba thì nhận được đãi ngộ tương tự Lâm Tử Đồng.
Nếu kiếm cơm dựa vào vốn ban đầu thì vóc dáng và phong độ luôn nằm hàng đầu, bà Cát gọi đó là tác phái công tử ăn chơi trác táng, nên rất rõ ràng, bà không muốn cân nhắc xem một trong ba người họ ai sẽ là người nắm bàn tay đeo găng trắng của Sở Vọng.
“Ngài Hoàng thì sao?” Bà Cát hỏi dò, “Sau lần ở khách sạn Hoa Mậu, ai ai cũng nghĩ ông ấy là cha nuôi trên danh nghĩa của cháu, có quan hệ tốt với nhà họ Tạ, về sau còn giúp cháu cứu Trịnh Diệc Dân vì muốn cám ơn cháu chuyện của Tạ Trạch Ích. Ông ấy thế nào?” Một lúc sau, bà Cát lại nói, “Có điều đến ngày thứ ba ông ấy mới lên bến tàu, gấp gáp quá, sáng hôm đó cần phải bàn bạc.”
Cô chỉ biết gật đầu.
“Lần này đã có thể ngủ ngon chưa?”
Đến lượt cô an ủi hàng lông mày nhíu chặt của bà Cát: “Nếu Tạ Trạch Ích về mà thấy cháu sụt cân thế này thì liệu có trả hàng không?”
Tuệ Tế và Mật Thu bật cười. Bà Cát mắng cô, “Cháu tưởng ra chợ mua thịt heo đó hả?”
Cũng may cô không gầy đi quá.
Lễ phục dần được đưa đến, cánh nữ quyến tò mò ngồi trong phòng chờ cô dâu thử đồ. Tuệ Tế tới giúp cô mặc, đến khi đi ra, nữ quyến bên ngoài nhìn chằm chằm mà than: “Bộ váy thêu hoa này quá sang trọng, không biết mất bao lâu mới thêu xong hoa văn tỉ mỉ này nhỉ?”
Cô mặc vào đi mấy bước, bà Cát dán mắt nhìn những nếp gấp xếp ly trên váy cô mà không nói gì, chỉ bảo Tuệ Tế dẫn cô vào thay đồ.
Váy gạc đuôi cá ôm sát mặc trong bữa tiệc vào buổi chiều có thể gọi là yếm, lên trên nữa là một lớp lụa mỏng khoác hờ trên vai; từ quần trở xuống lại là một lớp lụa dày, bên trên khảm những viên kim cương tròn, chỉ cần một chuyển động nhẹ cũng đủ khiến người khác choáng váng.
Mấy bà dì bà bác lớn tuổi cảm khái: “Eo cô dâu nhỏ quá.”
Bà Cát nói, “Dạo này con bé có hơi gầy.”
Không biết là ai khen, “Cần lồi có lồi cần lõm có lõm.”
Lại có người tán dương, “Gầy mới đẹp. Chứ nếu không gầy, váy nhiều xếp ly như thế thì có mặc vào cũng không được linh động thế đâu.”
Bà Cát chỉ cười.
Bộ váy mặc sau tiệc tối là một chiếc váy dài taffeta màu xanh đậm. Vạt áo mỏng màu đỏ đậm gần như trong suốt ở mặt trước nhạt dần từ xương quai xanh đi xuống, phần váy nhung màu xanh đậm rũ dài, ở bên eo chiết nhẹ, từ phần mông trở xuống, bên ngoài lớp nhung màu xanh đậm là lớp lụa êm ái màu xanh nhạt, thêm vào đó là những nếp gấp nhẹ nhàng đầy thanh lịch, sang trọng nhưng không cường điệu.
Trong số các lễ phục thì đây là bộ cô thích nhất.
Cuối cùng áo cưới gửi từ Pháp cũng đã tới.
Trước lúc đó, vì để đề phòng nên bà Cát đã cố ý mời thợ may người Ý ở Hương Cảng lẫn Thượng Hải thiết kế cho cô hai bộ. Một bộ tay áo lụa không quá đặc biệt, một bộ là váy dài không tay có thắt lưng, song bà lại chê không đủ trang trọng.
Cho đến khi nhận được chiếc váy cưới do đích thân ngài Saumur may, rốt cuộc bà mới thở phào.
Vải lụa dài tay, phần cổ tay dùng chun nhẹ ôm sát, được thêu thêm một lớp ren viền hoa, dải lụa hương vân ở cổ áo nhẹ ôm lấy cổ mỹ nhân một cách vừa khít. Bên dưới cổ áo, hình chữ V nhỏ được khoét tạo điểm nhấn: phía trên có xương quai xanh hơi nhô lên dưới lớp lụa căng nhẹ, bên dưới để hở vùng da trắng nõn gần như tiệp màu với áo cưới, cổ chữ V còn khiến tầm nhìn bị kéo xuống theo, phần váy có hoa văn thêu rất độc đáo, phần váy xòe gồm mười hai lớp lụa, đuôi cá gồm sáu lớp, từ trước ngực kéo xuống váy được thêu bằng chỉ vàng chi chít, nổi bật hẳn trên thớ vải màu trắng ngà, đẹp đến ngỡ ngàng.
So với váy cưới, đồ trang trí của Kutchinsky chỉ có thể được coi là nền: một chiếc vòng tay kim cương 12 cara uốn cong hình bông tuyết phức tạp, đồ trang sức bằng bạch kim hình chim công, ở phần đuôi gắn mười hai viên ngọc trai và một cặp bông tai bồ công anh Psirati.
Khi Sở Vọng thay đồ rồi đi ra, các chị các dì ở bên ngoài không kìm được mà than.
Đến bà Cát thường ngày hay soi mói cũng sáng mắt lên, tầm nhìn rơi lên lỗ tai cô.
Theo thông lệ, ngày hôm đó ở vườn hoa trong biệt thự bà Cát sẽ tổ chức bữa tiệc quy mô nhỏ dành cho người thân trong gia đình. Ngắm váy cưới cô dâu xong, mọi người rối rít rời đi, kể lại với những người đến chậm lỡ dịp chiêm ngưỡng dung nhan của cô dâu.
Mọi người ở viện nghiên cứu cũng đã nhận được vé tàu, giữa trưa hôm đó đồng loạt đến Hương Cảng. Bà Cát còn tận tâm thay cô chuẩn bị một gian phòng tiếp khách để đón bạn bè. Chú Henry đẩy trà chiều tới, đám quái nhân này vừa đến đã lập tức cử Oppenheimer tặng robot mô hình nhỏ do mọi người chế tạo làm quà cưới, cũng rất ngưỡng mộ bày tỏ: “Từ nay em có thể độc hưởng một chiếc máy tính rồi!”
Nhìn mô hình trông giống như màn hình máy tính để bàn ở thời đại win98, Sở Vọng run tay nhận lấy cám ơn.
Ăn xong bữa nhẹ, mọi người nhao nhao bày tỏ muốn đi chơi cảm nhận ánh nắng và bãi cát ở khu vực nhiệt đới vùng Thái Bình Dương. Nhưng ở biệt thự lại không có đủ xe để đưa mọi người đến vịnh Nước Cạn. Đúng lúc Di Nhã đã được bà Cát nhờ dẫn cô ra ngoài giải sầu từ sớm, thế là cô nàng lập tức đứng ra gọi điện về nhà điều ba tài xế đến, đoàn người ồn ào dẫn theo cô dâu chạy trốn, ra bờ biển mở bữa tiệc độc thân.
Vào lúc chập tối, khách sạn Vịnh Nước Cạn đã bày biện sàn nhảy. Bảy tám chiếc xe Plymouth và Cadillac đậu bên ngoài. Nhân viên phục vụ ngạc nhiên mở cửa, có lẽ anh ta chưa bao giờ chào đón rất nhiều du khách da trắng kỳ lạ như vậy trong đời, thậm chí đến nam nữ trong khách sạn cũng giật mình bất ngờ.
Mới đầu mọi người vẫn thong thả ăn uống trò chuyện nghe nhạc, nhưng khi rượu quá tam tuần, bọn họ không hẹn mà cùng trở nên phấn khích, kéo tay người bên cạnh bất kể giới tính bước vào sàn nhảy, cùng cười nhảy múa trong tiếng nhạc ầm ĩ; John vui vẻ khiêu vũ với bạn gái của Oppenheimer, còn Oppenheimer đứng ngoài sàn nhảy vỗ tay cười to…
Sở Vọng không ngờ đám người này một khi ‘điên lên’ thì sẽ như vậy. Nhấp hai ngụm Whisky, chợt có người đi tới vỗ vào vai cô, tưởng là Di Nhã nên cô kéo tay cô ấy tỏ ý ngồi xuống bên cạnh. Nhưng khi quay đầu nhìn thì thấy ở cách đó không xa, Di Nhã và ngài Tưởng đang trò chuyện say sưa với một cô gái người da trắng dưới ánh đèn nhiều màu.
Lập tức nhìn lại, cô gái sau lưng mặc một chiếc váy ngắn bằng vải lông ngỗng, nước da màu lúa mì lộ ra dưới ánh mặt trời vùng nhiệt đới; một tay xách giày, chân trần dính đầy cát; một tay kéo tay cô cúi người cười vui vẻ.
Ngụm Whisky trong miệng cô suýt phun cả ra ngoài, “Chân Chân!”
Chân Chân vội “suỵt ——” một tiếng, kéo tay cô nói nhỏ: “Lại, lại bên này.”
Cô để Chân Chân lôi mình đi, từ lối đi âm u sau lưng đám đông rồi rời khỏi khách sạn, tiếp tục chạy lên cầu thang đi lên ban công tầng hai, ban công khuất sau hai bụi cây cọ, bên ngoài chính là bãi biển và vịnh hẹp trong ánh chiều tà đỏ rực.
Trên sân thượng xếp một hàng dài gồm ba mươi chiếc ghế tắm nắng, nhưng chỉ có vài ba người ngồi trên đó.
Sở Vọng tra hỏi: “… Chị chui từ đâu ra vậy?”
Chân Chân cười ngất, “Đừng nói nhảm nữa. Không dám đến chỗ náo nhiệt, chỉ dám ở bên rìa thành phố phơi nắng, chị chán chết rồi đây. Di Nhã đã muốn dẫn em đến vịnh Nước Cạn chơi từ lâu, thế mà vừa về Hương Cảng là em cứ ỉu xìu. Sao lại gầy thế này? Có nhớ chị không?”
Sở Vọng choáng váng, “Chuyện học thì sao?”
Cô nàng lè lưỡi, “Thì đến Anh cũng cần phải học tiếng Anh một năm, chẳng thà tìm thầy giáo giọng Oxford phụ đạo 1:1, như thế vẫn còn dư lại nửa năm.”
Sở Vọng trố mắt: “Chers cũng tới Hương Cảng?”
Chân Chân cười nói: “Nhờ phúc của em mà anh ấy đã bắt kịp thuyền, vừa đến đảo Penang đã kéo chị xuống thuyền, gọi điện về hội đồng khu nhờ chồng của ai đó ủy thác thiếu tá hải quân hoàng gia đích thân điều anh ấy đến Hương Cảng.”
Cô “ơ” lên.
Chân Chân tựa đầu vào lan can, nheo mắt nói: “Không phải chính miệng em thổ lộ với Di Nhã là muốn ‘đợi đến khi về già thì cùng nằm trên ghế ngắm trai đẹp ở biển’ hả Nhìn chị làm gì, ngắm biển đi chứ.”
Thời tiết đầu mùa đông có lẽ cũng chỉ khoảng 20 độ, đứng trên bãi biển gió thổi tới càng lạnh hơn.
Cô nhìn ra bãi biển: trai gái già trẻ dưới dù che nắng có vẻ không sợ chút nào lạnh, mặc trang phục mùa hè y hệt Chân Chân.
Sau khi mặt trời khuất núi, dưới vòm cây hai bên trái phải là bóng dáng nam nữ thanh niên quấn lấy nhau, thi thoảng còn có thể nghe thấy tiếng cười nói.
Xa xa ngoài bãi cát, tầm nhìn rộng rãi hơn nhiều, do đó khung cảnh cũng rực rỡ và tráng lệ hơn. Bấy giờ trò lướt sóng chỉ vừa từ Hawaii lan đến Úc, nhưng vẫn chưa lưu truyền từ Mỹ đến vùng Viễn Đông. Những trò giải trí dưới biển rất ít, chủ yếu chơi đùa trên bờ cát. Không ít người da trắng quyến luyến cảm giác sương mù buổi hoàng hôn này, thậm chí cũng chẳng sợ lạnh, mặc luôn quần đùi hoa nằm dài trên ghế tắm nắng, nửa thân trên để trần khiến người khác thấy rõ lông ngực.
Bất tri bất giác nhớ đến ngày Tạ Trạch Ích ở đảo xa cũng mặc quần đùi hoa như thế, một tay dắt xe đạp, có lẽ là học thói hư trong trào lưu lướt sóng ở Mỹ.
Đang mải nghĩ, chợt cô nghe thấy giọng Oxford từ xa truyền đến. Ngẩng đầu lên thì trông thấy một người mặc áo sơ mi trắng cùng quần đùi hoa, một người khác mặc sơ mi trắng quần dài đen, cầm áo khoác quân trang trong tay tiến về phía họ – chính là Chers và Tạ Trạch Ích.
Chân Chân vẫy tay, Chers lập tức sải bước đi đến.
Sở Vọng ngẩng đầu lên, Tạ Trạch Ích cũng đưa mắt nhìn cô, bước chân không khỏi dừng lại, tụt đằng sau Chers.
Lan can ban công cao chưa đầy một mét, mà ban công cũng không cao quá bãi cát nửa mét. Chers chạy nhanh mấy bước cuối rồi bật nhảy lên.
Người ngắm cảnh trong phòng ở nhà hàng trên lầu lập tức rướn cổ nhìn ra.
Tạ Trạch Ích lại không làm lố như vậy, đôi giày lính của anh dẫm lên cát từ từ bước đến, đứng dưới ban công ngẩng đầu nhìn cô.
Sở Vọng nói: “Tiệc độc thân của em, anh đến làm gì?”
Chers nghe hiểu tiếng quốc ngữ, thế là dùng tiếng Anh đáp thay anh: “Anh ấy chưa cởi quân trang, trong tay còn cầm súng, nghe nói Madam ở vịnh Nước Cạn nên mới lập tức lái xe đến, có lẽ là muốn quyết đấu với ai đó.”
Chân Chân phá lên cười.
Chers vỗ lan can: “Sao sếp không lên đây?”
Tạ Trạch Ích mỉm cười, “Vợ tôi gầy đi nhiều rồi.”
“Vẫn ổn mà.” Sở Vọng nhớ đến chuyện cười bán thịt heo, “Gầy thì sao, muốn nhân đó trả hàng hả?”
Tạ Trạch Ích giang rộng hai tay với cô, nháy mắt, “Thử là biết thôi.”
Người xem trên ban công không chê chuyện lớn, lập tức hò reo khuyến khích.
Cô trợn mắt, gạt bỏ đề nghị, “Em đang mặc váy mà.”
Có người tốt bụng đang nằm trên ghế tắm nắng đứng dậy, gọi nhân viên phục vụ đến lấy chìa khóa mở khóa khóa cửa nhỏ trên lan can sắt.
Cửa nhỏ mở ra đối diện với thềm đá, cách dưới chân cô chỉ ba bốn bước, như đang hoan nghênh nhiệt liệt cô ra mắt.
Cô đau đầu.
Dưới bao ánh nhìn, Tạ Trạch Ích giẫm lên bậc thềm, đứng trên bục thấp, một tay ôm eo cô nhẹ nhàng ôm cô xuống.
Hai chân cô vút lên trời, vì sợ ngã nên vô thức vòng tay ôm lấy đầu anh, la lớn trong lòng: quả là quá tâm cơ!
Trên ban công khách sạn truyền đến tiếng trầm trồ.
Tạ Trạch Ích sải bước lớn, ngẩng đầu nói: “Nhẹ đi không ít.” Rồi ôm cô đặt xuống ghế tắm nắng.
Anh ngồi xổm cạnh cô, ngẩng đầu lên nhìn, trong mắt không hề có ý đùa giỡn: “Sao lại thế này?”
Màn đêm vừa giăng, nhân viên đi ra bãi biển châm đèn dầu hỏa.
Sở Vọng cười nói, “Đang lo không có ai dắt tay em đi về phía anh.”
Hai mắt Tạ Trạch Ích lấp lánh vì sao mỗi khi cười, “Thế thì có sao?”
Cô cúi đầu, “Em chỉ hy vọng được nhận lời chúc phúc.”
“Người đó quan trọng lắm hả?”
“Rất quan trọng.”
“Quan trọng thế nào?”
Cô suy nghĩ, “Nếu không gặp thầy Từ, có lẽ em đã đến Paris mua vài căn nhà cho thuê, làm bà chủ nhà an hưởng tuổi già rồi…”
Tạ Trạch Ích cười nói, “Nên là? Bây giờ chúng ta cũng có thể đến đại lộ Champs Elysée để mua hàng chục căn hộ có vườn, mỗi tháng anh sẽ chống gậy cùng em đi thu tiền nhà, trò chuyện tận hưởng tuổi già.”
Cô mỉm cười, nhìn theo ánh mắt anh mà thở dài, “… Nếu không có anh ấy, có lẽ sẽ không có cơ hội thật sự hiểu anh.”
Tạ Trạch Ích nghiêm túc lắng nghe rồi tổng kết, “Ừm, thế thì đúng là rất quan trọng rồi.”
Sở Vọng cười.
Tạ Trạch Ích kéo tay cô hôn lên, ngón cái xoa nhẹ mu bàn tay cô, khẽ gọi, “Cô Tạ.”
“Ừm?”
“Anh Tạ dùng để làm gì?”
Trong đầu cô bất giác hiện lên nhiều công dụng của Tạ Trạch Ích.
Còn chưa kịp nghĩ ra câu trả lời chính xác thì Tạ Trạch Ích đã nói, “Sau này nếu gặp chuyện hay người nào đó không hai lòng, em chỉ cần giới thiệu mình là ‘cô Tạ’. Nếu bọn họ muốn hỏi chuyện hay muốn đổ lỗi thì nhất định sẽ nghĩ, trước em còn có một anh Tạ. Anh Tạ chính là áo giáp của em, về sau hễ gặp gió bão thì em cứ đẩy anh ra chắn. Cô Tạ à, em phải suy nghĩ bao lâu mới nhận ra đây?”
Tạ Trạch Ích thấy cô vẫn chưa nhận ra thì đứng dậy xoa đầu cô, cười bất đắc dĩ.
Sở Vọng chỉ nghĩ Tạ Trạch Ích nói thế là để an ủi mình, nghĩ kỹ thì cũng không giải quyết được nguồn gốc sự buồn rầu của cô, thế nên cũng không để trong lòng.
Cô lại hỏi anh mấy chuyện như vì sao Chers và Chân Chân lại từ Penang đến Hương Cảng, có tính toán gì. Cuối cùng hai người cùng nhìn những con thuyền nhỏ ở xa đang lại gần bờ, sương khói trong lòng cô nhiều ngày qua lập tức tan biến, hiếm được dịp bình yên thế này.
Nhẽ ra anh không nên biết gì cả, nhưng trong chớp mắt đó, Sở Vọng cảm thấy người đàn ông bên cạnh có thể hiểu cô.
Hôm đó chơi tới tận mười giờ đêm, mọi người ở khách sạn vẫn chưa thỏa thích, mấy con ma say làm liên lụy Chers và tài xế hai nhà phải đỡ lên xe.
Mọi người lần lượt lên đường, Di Nhã và ngài Tưởng lái xe đến đón Chân Chân về, mấy chiếc xe của nhà bà Cát và nhà họ Tạ chở mọi người ở viện nghiên cứu về thẳng khách sạn Sheck O, còn Chers và Tạ Trạch Ích thì cùng đưa Sở Vọng về nhà.
Tạ Trạch Ích là chú rể, không tiện vào nhà vợ nên ba người tạm biệt nhau ở đường Bá Tước, câu chào là “hẹn gặp lại vào ngày hôn lễ”.
Hiếm khi Sở Vọng có được hai giấc ngủ ngon.
Quả nhiên, ngày hôm sau, Tạ Trạch Ích rất quy củ không xuất hiện trong tầm mắt của bà Cát.
“Bọn đàn ông cũng chuẩn bị cho anh Zoe bữa tiệc độc thân rất long trọng.” Tối thứ hai, Di Nhã dẫn Chân Chân đến nhà bà Cát, cô nàng đã nói như vậy.
Bà Cát liếc cô rồi quay sang liếc Chân Chân: “Bạn của cha cháu không đến hôn lễ đúng không?”
Chân Chân cười giảo hoạt, “Chơi với cấp trên của nó xong, cháu tức thì chạy đến Shek O trốn.”
“Còn biết có cấp trên, Sở Vọng thì chả biết gì.”
Sở Vọng chẳng hiểu sao lại bị nói, tức khắc ra chiều vô tội.
Bốn người ngồi trong phòng cô, nghe bà Cát thuật lại kỹ càng về chương trình hôn lễ.
Sở Vọng ngáp liên tục, miễn cưỡng ghi nhớ đại khái trước khi ngủ thiếp đi.