Ngày hôm sau, mới bốn giờ sáng mà Tuệ Tế đã gấp gáp cầm một bức điện báo đi lên lầu.
Cô mở ra xem, điện báo bảo cô nhanh chóng đến đường vượt giới kiểm tra tài liệu, tối nay máy bay quân dụng sẽ đưa số tài liệu đó đến căn cứ đầu tiên được xây xong.
Cô cấp tốc rửa mặt, đến khi xuống lầu, đa số của hồi môn đã được đưa đến ngân hàng, bà Cát đang ngồi thương lượng với luật sư. Thấy cô đi xuống, bà chỉ hỏi một câu: “Mấy giờ thì về?”
Cô lắc đầu.
Bà Cát nói thêm, “Nếu quá bảy giờ thì cô sẽ gọi điện hẹn bác sĩ hôm khác lại đến.”
Sở Vọng gật đầu, lúc mặc áo khoác đi ra cửa, tài xế đã chờ sẵn bên ngoài.
Hồi trước có bao nhiêu người lục tục rời khỏi viện nghiên cứu, thì bây giờ sẽ có bấy nhiêu số nhà khoa học từ Mỹ đến bổ sung.
Nhân viên tổ I gần như đều có mặt, vì mỗi người trong số họ đều biết bí mật mình nắm giữ liên quan đến tính mạng loài người, không dám hành động thiếu suy nghĩ hay dễ dàng từ bỏ nghiên cứu.
Không cần sửa lại tài liệu, tổ I đã có hệ thống phân loại dữ liệu riêng ngay từ đầu và mọi người cũng có tủ sắt riêng. Nên khi một hạng mục xảy ra vấn đề thì cũng rất dễ biết được là do ai chịu trách nhiệm.
Lính Mỹ và quân đội Anh đi từng hàng từng hàng lên lầu chuyển tài liệu xuống, còn cô ôm một chồng giấy tin tức còn dang dở chạy chầm chậm.
Ở phía cuối, chợt có người đi lên đỡ chồng giấy cho cô.
Là một tiến sĩ toán học trước đây không thân thiện với cô lắm. Cô ngoảnh đầu lại, mỉm cười với anh ta.
Người kia xấu hổ, lắp bắp mãi mới tìm được đề tài: “Có người dự đoán, giải Nobel năm nay có thể trao cho nguyên lý dao động.”
Cô nghiêng đầu cười nói: “Đúng là đáng tiếc. Điều đó có nghĩa là anh có một đồng nghiệp tầm thường, đã hạ thấp tiêu chuẩn của cả đội.”
Anh ta lại không biết phải tiếp lời thế nào.
Oppenheimer sải bước đi đến, “Có lẽ anh ấy chỉ muốn chúc em tân hôn hạnh phúc, có phải không John?”
Cô lập tức cười nói trước khi anh ta lên tiếng: “Cám ơn.”
Ba người một hàng đứng giữa sân cỏ, nhìn chằm chằm từng thùng tài liệu được chuyển lên máy bay quân dụng.
Có lẽ Sở Vọng biết vì sao bọn họ lại đến vào lúc đêm khuya. Nhân lúc nửa đêm, hai nước Anh Mỹ liên thủ di chuyển lực lượng cốt lõi của người Nhật để tránh đêm dài lắm mộng, vì vậy mới dùng tốc độ nhanh nhất chuyển tài liệu, tránh về sau có nhiều mạng lưới tai mắt của nước khác.
Bàn về chuyện mưu kế, có người nói: “Liệu người Mỹ có nuốt trọn tài liệu này không?”
Oppenheimer chống nạnh, nheo mắt cười nói: “Trừ khi bọn họ độc chiếm đầu óc của cả đám chúng ta.”
Sở Vọng cười to: “Vậy bao giờ chúng ta mới lại được chạm vào tài liệu đây?”
“Khoảng bốn tháng.” Giọng của Bohr truyền đến từ trong máy B-25, “Tôi và Fermi sẽ đi trước, thúc đẩy ngày đó đến sớm hơn.”
Sở Vọng cười nói: “Chỉ mong đến lúc ấy hôn lễ của em đã kết thúc thuận lợi.”
Bohr cũng cười lớn, “Thế thì chúng ta đành cử hành hôn lễ đơn sơ cho hai người ở căn cứ E rồi.”
“Tôi hy vọng sẽ sớm ngày xây xong căn cứ E, tốt nhất là trong tuần tới. Như thế hôn lễ của em ấy chỉ có một chiếc bàn, cùng lắm là thêm một rương rượu trái cây, uống rượu xong lại đốt hai cây pháo bông, như vậy là có thể đưa em ấy và sĩ quan của mình vào phòng tân hôn sơ sài được rồi.” Oppenheimer bĩu môi, “Vì em ấy không mời tôi tham dự hôn lễ.”
Người của tổ I cùng cười phá lên.
“Còn chưa làm xong thiệp cưới mà.” Sở Vọng lúng túng, sờ vào túi áo khoác, “Bây giờ em mời miệng được không?”
Fermi và Bohr ló người ra từ phía sau, ném cho cô một tờ giấy và một cây bút máy: “Bây giờ đi ghi lại địa chỉ của mọi người đi, đến khi có thiệp cưới thì gửi tới từng nhà, vẫn còn kịp đấy. Nhanh lên.”
Cô cúi người lật đật cám ơn, rồi chạy mòng mòng xung quanh xin địa chỉ của mọi người, vô cùng bận rộn.
Trong đó có mấy cô gái là tiếp tuyến viên cũng hỏi cô liệu mình có thể tham dự hôn lễ được không, cô lập tức bảo bọn họ ghi lại địa chỉ.
Kiểm tra đã xong, trước khi khép cửa lại, Bohr chợt nói: “Tôi và Fermi không có vinh hạnh này rồi. Nhưng bất luận thế nào đi nữa, bao giờ đến căn cứ E thì sẽ chúc mừng em thêm lần nữa.”
Cô gật đầu đáp vâng, đột nhiên cảm thấy rất có mặt mũi.
Cô hít sâu một hơi, nghĩ bụng: đến cuối thế kỷ khi nhìn lại hôn lễ này, thực sự là có rất nhiều danh nhân khắp thế giới hay người đoạt được giải thưởng Nobel đã đến tham dự buổi hôn lễ của cô, không biết sau này về già có thể nói phét được với bao nhiêu tụi trẻ.
Khi nghe tin luận văn sự tồn tại của Nơtron bị loại bỏ khỏi danh mục đề cử giải thưởng Nobel, không biết cô đã nhẹ nhõm tới đâu: Ít nhất là trong năm nay, cô không cần lo lắng khi bắt gặp De Broglie ở đâu đó, làm cô xấu hổ không chốn dung thân.
Trời vừa tảng sáng, khi mấy chiếc máy bay quân sự bắt đầu cất cánh, cô gái tiếp tuyến viên ở tầng hai kéo tay áo cô, bảo rằng cô nhận một bức điện báo.
Lên tầng hai, cô gái người Pháp trao tận tay cô bức điện, dặn cô đọc xong thì trả lại.
Cô ngạc nhiên cầm lấy.
Trên trang đầu tiên viết một câu:“Vào lúc 4 giờ sáng ngày 26, trong trận động đất Fukui 4.1 độ richter, các nhà khoa học phát hiện ra lò phản ứng đã hoạt động liên tục, dự đoán trong hai mươi năm tới sẽ có trận động đất quy mô lớn gây ra khủng hoảng.”Thư đến từ đài phát sóng dài ở núi Thái Bình.
Cô giật mình, nhớ đến người Nhật dù ngã gục giãy giụa vẫn không từ bỏ đường sắt Mãn Châu, đoạn nghĩ, đúng là báo ứng.
Trên trang thứ hai hỏi:“Hỏi, dùng túi cao su mỏng bịt đầu hươu lại thì sau bao lâu nó sẽ chết? Từ thân ái.”
Đợi cô đọc hết, tiếp tuyến viên nhanh chóng lấy hai tờ giấy trong tay cô, thấy vẻ mặt cô khác lạ thì hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì sao?”
Cô cười nói: “Bị thầy chỉ trích thôi.”
Cô gái người Pháp cho giấy vào máy cắt giấy, vô tình trông thấy bức thứ hai, không khỏi ngạc nhiên: “Vì sao phải dùng túi cao su bọc đầu hươu? Tàn nhẫn quá.”
Cô nói: “Nghẹt thở có thể làm dừng hô hấp.”
Cô thờ ơ nói xong, trong ánh mắt ngạc nhiên của cô gái da trắng, xoay người mở cửa đi ra.
Động vật có vú hô hấp sẽ tạo ra một lượng lớn carbon dioxide, có thể gây nghẹt thở và tử vong.
Theo cách tương tự, radon được giải phóng bởi sự biến đổi của radium tích lũy sẽ hấp thụ neutron với số lượng lớn, ngăn chặn phản ứng dây chuyền.
Đấy chính là nghẹt thở.
Từ Thiếu Khiêm đúng là lợi hại, lần nào cũng có thể nhìn được toàn cục từ những việc nhỏ nhặt, bốn giờ nhận được thư thì ba tiếng sau đã nghĩ đến việc chất vấn cô: “Kết luận của hiệu ứng ngạt thở của em là gì?”
Sau đó lại nghĩ đến: “Trong tay em có con dao rạch được túi mỏng, em vẫn muốn để nó chết?”
Tàn nhẫn ư?
Một mình cất giấu bí mật này gần một năm, cô luôn nghĩ sẽ ai đó đứng từ quan điểm đạo đức mà trách móc cô. Thà rằng liệt kê rành mạch hành vi phạm tội của cô còn tốt hơn là cô tự tra tấn mình bằng câu chuyện ghi chép bằng tiếng Anh trong 8 tháng qua: con hổ ngày bé từng tấn công con người, về sau được con người nuôi dưỡng, trước khi nó tấn công người chủ thì người chủ đã nổ súng bắn chết nó, vậy hành động đó là sai hay không sai?
Vấn đề này càng khó phân tích hơn với định luật bà ngoại*.
(*Cái định luật Từ Thiếu Khiêm đã từng đặt ra cho Sở Vọng ở chương 36.)
Mà khi chính Từ Thiếu Khiêm hỏi ra, cô lại càng không thể trả lời được.
***
Về đến nhà cũng chỉ mới 10 giờ, bà Cát đã qua cảm giác buồn ngủ, Tuệ Tế thấy cô về thì lập tức đi gọi điện cho bác sĩ.
Cô cởi áo khoác, còn chưa thay áo ngủ mà đã ngã phịch xuống giường, chẳng mấy chốc đã ngủ say.
Khi bác sĩ đến, cô uể oải vươn tay ra khỏi chăn cho ông ta bắt mạch. Bác sĩ hỏi cô vài vấn đề thông thường như chu kỳ kinh nguyệt là bao lâu, có hút thuốc không, cân nặng bao nhiêu vân vân, rồi sau đó không hỏi gì thêm.
Cô nghĩ bụng, người này có thể tính được cân nặng từ pound sang cân, thỉnh thoảng lại dùng thuật ngữ y học hiện đại, có lẽ ông ta là một bác sĩ phụ khoa vừa nghiên cứu y học Trung Quốc và cũng nghiên cứu y học phương Tây. Nên cô cũng không buồn hỏi rằng, rốt cuộc bà Cát mời ông đến là để bồi bổ cho cô để cô có sức khỏe mang thai, hay là trang bị cho cô các biện pháp tránh thai khẩn cấp. Suốt quá trình khám cô cứ lờ đờ uể oải, chẳng hề có lấy hứng thú chút nào.
Có lẽ là vế sau. Kinh nghiệm này đến từ người bạn da trắng cùng phòng cô ngày trước, có một lần cô ấy rủ Lâm Trí đến bệnh viện với mình để kê toa thuốc tránh thai khẩn cấp, bác sĩ nhắc nhở cô ấy rất nhiều: Không hút thuốc, tập thể dục nhiều hơn, khả năng thấp là có hơi phát phì.
Sau đó có một lần, người bạn cùng phòng đó tò mò hỏi vì sao chưa thấy cô uống thuốc tránh thai khẩn cấp bao giờ. “Cậu không thấy dùng ‘áo mưa’ phiền lắm à?” Cô ấy đã hỏi Lâm Trí như vậy. “Không hề, vì mình không có bạn trai.” Bạn cùng phòng nghe thế thì lấy làm ngạc nhiên, cũng tốt bụng bày tỏ mình có thể cho cô mượn “máy rung” để an ủi, nhưng cô đã khéo léo từ chối.
Ngày hôm kia thuốc được đưa tới cửa, hình như nó có công dụng để cô thèm ngủ hơn thì phải; mà cũng có thể do cô không muốn suy nghĩ về câu hỏi của Từ Thiếu Khiêm nữa, dứt khoát đánh một giấc thật ngon, nằm trên giường làm con rùa đen rụt cổ đến tận mấy hôm liền.
Sau một phen bận rộn, bà Cát cũng ngủ một giấc rồi tỉnh, quấn khăn trùm đầu đi vào phòng cô.
“Tâm trạng của cháu đang không được tốt.”
Cô lộ ra nửa cái đầu, nói dối, “Có hơi mệt thôi ạ.”
Bà Cát cũng không hỏi nhiều, chỉ đưa gương tới cho cô nhìn.
“Cô thấy đó, cháu vẫn ổn mà.”
“Cũng không quan tâm chuyện hôn lễ của mình à?”
“Cô biết nhiều hơn cháu.”
Bà Cát bất đắc dĩ, “Bây giờ làm con dâu nhưng sau này sẽ làm chủ nhà, không biết quản lý tài sản chuyện vặt thì dù có nhiều tiền tới mấy cũng không ngóc đầu lên được.”
Cô nheo mắt vui vẻ.
Một lúc sau bà Cát lại nói, “Thôi, chừng nào cô còn sống thì không ai trong liên quân tám nước* dám đè đầu cháu cả.”
(*Ý bà Cát muốn nói đến những bà vợ lẽ đa sắc tộc của Tạ Hồng.)
Sở Vọng bật cười: “Đủ tám nước thật ạ?”
“Thiếu một cô gái người Nhật. Hiện tại tập thể cư dân ở Hồng Khẩu đã đi thuyền về nước, nhưng có lẽ sẽ có nhiều người muốn cùng cái gã tình trường lão luyện đến Hương Cảng hưởng thái bình giàu sang. Chắc hẳn nể mặt con trai nên ông ta mới không dám để lộ ham muốn.”
Sở Vọng cảm thấy hứng thú trước chuyện tình phong lưu của Tạ huân tước, “Có tám vợ bé nhưng không có vợ cả, vì không ai sinh con trai cho ông ấy hả cô?”
Bà Cát không trả lời thẳng, “Không có vợ cả thì quá tốt còn gì, cháu đến nhà họ Tạ còn sợ ai đè đầu cưỡi cổ nữa?”
Sở Vọng cười đáp: “Cô nói rồi mà, liên quân tám nước không dám động đến cháu là vì có cô ở đây.”
Bà Cát liếc cô: “Giờ càng lúc càng ghê gớm rồi đấy nhỉ.”
Bây giờ cô rất nghi ngờ về Tạ Trạch Ích, xoay người ngồi dậy, “Cô à, vì sao lại là Tạ Trạch Ích?”
“Gặp Tạ Hồng rồi thì cháu sẽ biết, ba mươi hoặc năm mươi năm nữa, mức độ phong độ anh tuấn của nó tuyệt không thua kém cha nó hiện nay, chắc chắn là vậy.”
“Vậy đợi ba mươi hay năm mươi năm nữa cháu sẽ cẩn thận đề phòng mấy cô gái trẻ bên ngoài.” Cô cười đùa, đoạn hỏi, “Cô ơi, vì sao sau này cô không tái giá?”
Bà Cát cụp mắt không biết đang nhìn nơi đâu, cười bảo, “Ông Cát đi đã nhiều năm, trong số rất nhiều người đàn ông đến rồi lại đi, thì chỉ có một Tạ Hồng là biết lý biết lẽ nhất.”
Sở Vọng ngẩng đầu: “Tạ huân tước là người rất thú vị.”
“Đúng thế, còn rất tốt với phụ nữ.”
“Thế vì sao cô không cưới ông ấy? Ông ấy cũng đã nhiều năm không cưới vợ mà.”
“Ông ta?” Bà Cát hừ lạnh, “Cô không muốn làm vợ người ta.”
“Làm vợ huân tước và làm bà Cát thì khác gì nhau ạ?”
“Khác nhau là lúc người ta gọi cô, sẽ không có người đàn ông nào đứng trước cô cả.” Bà Cát nhìn cô, “Làm vợ người ta là chuyện vô dụng nhất trong cuộc đời phụ nữ, cuối cùng rồi họ sẽ hiểu đàn ông còn không đáng tin bằng tiền. Nhưng cháu thì khác, cháu có sự nghiệp riêng của mình, sau này ra ngoài chỉ sợ người khác còn phải gọi cháu một tiếng là ‘cô Lâm’*, hoặc là gọi kèm tên chức vụ, có lẽ cả thế giới cũng chỉ có một mình Tạ Trạch Ích gọi cháu là bà Tạ.”
(*Bản gốc ở đây là ‘Lâm tiên sinh’, chữ tiên sinh được dùng với nghĩa gọi tôn trọng người có trí thức, không chỉ dùng riêng cho đàn ông.)
“Không phải như vậy rất hay sao, dành riêng một mình anh ấy gọi.” Sở Vọng cười nói, “Huống hồ cháu rất ghét rắc rối, chỉ e không làm nên đại sự.”
“Còn nói không làm nên? Mấy tháng này ai là đứa nổi nhất hả.”
Sở Vọng khó hiểu.
Tuệ Tế mỉm cười cầm mấy tờ báo đưa đến.
Cô mở một tờ báo ra, tiêu đề to đùng ghi: Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã trao giải thưởng Nobel Vật lý năm 1929 cho Tsui L., Leung Z. và Lam L. Ba nhà vật lý Trung Quốc đã phát hiện ra sự tồn tại của “nơtron”, xin ghi nhận những đóng góp của họ cho nghiên cứu thành phần hạt nhân nguyên tử.
Tay cô run lên, lại cầm lấy tờ khác, nhưng tờ nào cũng giống hệt nhau, in đầy tên của cô, Từ Lai và Lương Chương.
Ném báo sang một bên, cô ngã vật xuống giường, cuộn chăn quanh người, xấu hổ đến mức người đỏ bừng, đầu nghĩ: lần này mình tiêu thật rồi, mình còn mặt mũi nào mà đi gặp Louis de Broglie và James Chadwick nữa?
Bà Cát tưởng cô quá kích động, thế là bật cười với Tuệ Tế, nói: “Cũng may lúc đó cháu chưa mang họ Tạ, nếu không là để nhà họ Tạ thơm lây rồi.”
Sở Vọng muốn khóc cũng không nổi, chỉ muốn thời gian quay ngược trở lại hai năm trước, để cô có thể bút máy gạch tên mình trong trang cuối cùng ở bản thảo đi.
Hoặc là để cậu bạn nhỏ Từ Văn Quân mới mười hai tuổi đặt câu hỏi về sự tồn tại của nơtron với Từ Thiếu Khiêm, để tên cu cậu xuất hiện trên bài luận văn, để hôm nay cậu chàng 14 tuổi và bài luận văn đó sẽ nhận được giải thưởng Nobel, để người đời nhìn xem thiếu niên Trung Quốc là như thế nào.
Nhưng khi chuyện xảy ra với người phàm tục như cô thì đến chút cảm giác thành tựu cũng không có, thay vào đó là sự xấu hổ tột cùng. Bây giờ lại càng không biết nên về Hương Cảng đối mặt với Từ Thiếu Khiêm thế nào đây – vì anh là người biết rõ thân phận ‘ăn cắp bản quyền’ luận văn của cô.
Bà Cát nói tiếp: “Cháu dùng thân phận đó gả đi tức là kết hôn, không phải xuất giá, càng không phải bát nước đổ đi. Từ đây đi xe đến nhà họ Tạ cũng chỉ mất chừng 10 phút, cháu có thể về bất cứ lúc nào, cũng không ai dám chỉ trỏ nói ra nói vào.”
Cô thở dài, “Nhưng bốn tháng sau cháu phải đi rồi.” Cũng may cũng may, bốn thang mai danh ẩn tích đi làm công trình sư. Rồi mấy năm sau mới xuất hiện, khéo đến lúc đó người ta cũng quên chuyện này rồi.
Bà Cát nói: “Mười sáu tuổi còn quá trẻ, cơ thể không nẩy nở, từ xưa đến nay không biết có bao nhiều cô gái không qua được quỷ môn quan khi sinh con ở tuổi 16 17. Đợi mấy năm nữa sinh con là đẹp, khi đó cô của cháu vẫn chưa quá 50, vẫn có thể địu mấy đứa trẻ hiếu động đi chơi.”
Quả nhiên là thuốc tương tự thuốc tránh thai khẩn cấp, nhân tiện để cơ thể cô được bồi bổ nghỉ ngơi vài năm. Cô không khỏi khen bà Cát thật đúng là đi đầu trào lưu, biết nhìn xa trông rộng.
“Tạ Hồng muốn ôm cháu đến điên rồi, giờ cháu có tiền đồ như vậy thì không cần sợ ai này nữa, thích sinh khi nào cũng được.”
Có lẽ việc sinh con ngày trước đã để lại bóng đen trong lòng bà Cát, nên bà rất hay nói tràng giang đại hải bên tai cô. Cô nghe nhiều, dần cũng tự an ủi: hình như con gái dân quốc sau thời kỳ phong kiến phải có hư danh thì mới được đàn ông tôn trọng, nếu không sống sẽ rất mệt mỏi.
Bà Cát thấy cô không có vẻ gì là uể oải, thế là tiện nói luôn: “Có hứng rồi hả? Nếu có hứng thì để cô lấy đồ cưới ra xem với cháu.”
Trong rất nhiều món đồ đó có gốm Kháp ti pháp lan, gốm David, chạm khắc sơn mài, ngọc bích, vòng ngọc hình rồng, nậm rượu đồng, thảm mandala, bình ôm trăng, thư pháp trục dọc, tranh cuộn, tranh chim đậu cnàh tre, tranh vẽ nhà cỏ, vân vân… Cô nghe mà hai mắt trợn ngược, suýt đã ngủ gật.
Bà Cát vẫn chưa bỏ qua cho cô, đọc xong phần đó thì lại kiểm kê tiếp một đống đất đai, chủ yếu ở huyện Thiệu Hưng
“… Mấy ông cậu của cháu không thích tranh giành. Tiếp quản gia sản nhưng cũng không có ý kinh doanh, may là cô đã mua được 30% tài sản của tổ tiên để lại từ bọn họ. Có một vài cửa hàng bạc, bốn nhà máy rượu vang, một đồn điền trà, một trăm mẫu đất, bốn bất động sản… Ở cái tuổi 16 này, không ai giàu hơn cháu cả.”
Sở Vọng mệt đến nỗi gục đầu xuống, chỉ hỏi: “Rốt cuộc mấy thứ này có giá trị bao nhiêu?”
Bà Cát đưa ra con số hàng trăm triệu.
Cô vẫn không định lượng được, ngơ ngác hỏi: “Hả? Không đủ để mua Hương Cảng từ George V* ạ?”
(*George V là Quốc vương của nước Anh thống nhất và các thuộc địa Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5 năm 1910 cho đến khi mất năm 1936.)
“Mua được mười con phố cũng được nữa là. Nhưng mua để làm gì?”
“Xây nhà.”
Bà Cát tưởng cô nói đùa, thế là bật cười: “Để đến năm 80 tuổi dù chống gậy vẫn đi thu tiền, từ một xu đến 30 triệu cũng phải thu đủ?”
Sở Vọng cười cười, nhớ lại ý muốn to lớn của mình nhiều năm trước cũng chỉ đơn giản là góp đủ tiền, đến quận 8 Paris mua mấy căn nhà bình thường rồi cho thuê trọ, làm một bà chủ nhà an nhàn.
Mơ màng thiếp ngủ, cô nằm mơ thấy Tạ Trạch Ích cõng cô đi giữa ruộng đồng Thiệu Hưng. Trâu nước cày ruộng, các chú nông dân xuống ruộng, các cô thì cấy mạ, còn tụi nhỏ nô đùa vui vẻ.
Cô nằm trên lưng anh, vênh váo vung tay chỉ: “Mẫu đất này, mẫu đất kia, rồi kia kia nữa, tất cả, tất cả, tát cả đều là của chúng ta! Có giàu không?”
Vì cô nghiêng đầu nên tạo áp lực lên tuyến nước bọt, ở trong mơ nước dãi chảy ướt áo sơ mi của Tạ Trạch Ích, đến khi tỉnh giấc thì trên gối nhung ướt đẫm một mảng.