Nghe Bohr nói xong, ngay tức khắc cô đã hiểu ra hành động của Boulon.
Vị đại tá đứng đầu cục thanh tra quốc tế, việc đầu tiên làm khi tới Viễn Đông là (trông có vẻ) cố gắng thu thập chứng cứ phạm tội. Mà có thể để ông tìm được đầy đủ bằng chứng chứng minh trí mạng trong hai tuần ngắn ngủi, nhất định phải có cục điều tra liên bang giúp ông.
Nhưng tốn nhiều công sức điều cục thanh tra xa xôi đến Trung Quốc, dĩ nhiên mục đích không chỉ vì thu thập tội chứng phản bội. Mà có thể là bọn họ lấy cớ thu thập bằng chứng làm ngụy trang, mục đích chính vốn là thứ khác…
Sau khi phiên tòa cuối cùng khai mạc, cánh phóng viên bao vây cô nhanh chóng rời đi. Cô quay về vị trí của mình, lập tức nhìn sang Boulon.
Ông nở nụ cười nhất định phải đạt được.
Bọn họ… muốn giành được một phần lợi lộc!
Boulon hiểu cách làm người của Tạ Trạch Ích, còn Tạ Trạch Ích lại hiểu cách thức làm việc của quân đội Anh, và cũng biết rõ Trung Quốc.
Trên quan hệ Anh Mỹ, nước Anh chắc chắn không có khả năng nhượng bộ vì lợi ích bản thân, mà nước Mỹ cần Tạ Trạch Ích.
Do thế mà Boulon mới ra sức bảo vệ anh.
Đó là lý do Boulon bảo cô nhất định phải đến buổi hội thẩm công khai lần này, còn ám chỉ cô về tầm quan trọng của chiếc chìa khóa vàng Phi Beta; còn những lời khai liên quan đến Tạ Trạch Ích, quan tòa nước Mỹ cũng cố gắng chọn lời khai có thể gỡ tội cho anh, hòng dẫn dắt bồi thẩm đoàn tin vào “quan hệ bất chính” từ mối quan hệ bất hòa giữa thiếu tá, trung úy và nữ nghiên cứu viên này.
Còn các phóng viên tại tòa án thì lại phát hiện được tin thú vị trong buổi xét xử công khai nhàm chán này —— scandal!
Những hành động của Tạ Trạch Ích đã khiến chính phủ Anh Quốc e sợ địa vị của mình tại tô giới Thượng Hải, đang còn hốt hoảng sợ sẽ giống người Anh bị đuổi khỏi tô giới ở Hán Khẩu, thì khi “nhật ký” của Sakuma Ichiro và chìa khóa vàng đã tạo cho phóng viên ấn tượng sai rằng sĩ quan bảo vệ bạn gái mình, đồng thời cũng đã cung cấp cho bồi thẩm đoàn nước Anh tính hợp lý trong mọi động cơ bất hợp lý của Tạ Trạch Ích.
Boulon không chỉ muốn bảo vệ anh, mà còn muốn bảo vệ địa vị có quyền đảm nhiệm lợi ích ba nước.
Mà ngay sau lúc này, cục thanh tra đã nhận được một thông tin, đây là quy định bí mật được đặt ra bởi người Anh ở Hương Cảng và Viện nghiên cứu Hoàng gia Thượng Hải, được gọi là “quyền miễn trách nhiệm cho vợ hoặc chồng” của “công trình sư”.
Quy định này có thể giải quyết tốt đẹp mọi vấn đề.
Viện nghiên cứu lại cần dựa vào Tạ Trạch Ích để lôi kéo nước Mỹ sao?
Cô nhớ đến lời Bohr đã nói với mình, rồi lại tự hỏi bản thân, gần như lập tức đưa ra một đáp án —— cần!
Quả thật viện nghiên cứu cần nguồn vốn mạnh mẽ của Mỹ, nhưng lại sợ trong quá trình này, dã tâm của Mỹ sẽ khiến sức mạnh của bọn họ vô hình trung dần biến thành sức mạnh chủ đạo của viện nghiên cứu… Nên thay vì nói là cần đến Mỹ, nói đúng hơn là cần Tạ Trạch Ích đứng giữa hòa giải, mang lại lợi ích cho viện nghiên cứu mà không đến mức ẩn chứa tai họa ngầm.
Đây là tư lợi của Boulon, người vẫn mưu cầu lợi ích cho quốc gia và Bohr, người mưu cầu lợi ích cho nghiên cứu!
Vậy còn cô có tư lợi gì?
***
Cuối cùng lần này tuyên án ơn ba mươi thượng ủy và hơn hai mươi trung úy với hình phạt treo cổ, nhưng cô không có tâm trí để nghe. Lúc tuyên bố kết quả, Boulon là cảnh sát trị an giữ chức cao nhất liên quan phiên tòa đã cho cánh phóng viên ít thời gian phỏng vấn các thẩm phán và điều tra viên, rồi nhanh chóng yêu cầu quân đội đưa bọn họ ra ngoài cửa.
Sau đó ông trò chuyện đôi câu với thiếu tá lục quân Anh cùng tân phó lãnh sự tại Thượng Hải, cuối cùng Boulon tạm biệt thiếu tá, đi nhanh về phía cô.
Cảnh sát đang áp giải Sakuma Ichiro và Fujima mặt xám như tro tàn, từ sau ba người băng qua hành lang rời khỏi tòa án. Sakuma ngoảnh đầu nhìn Sở Vọng, nhưng bị binh sĩ đang áp tải quát một tiếng.
Lúc đi ngang qua, Boulon dừng bước bên cạnh cô, cười nói: “So với hình phạt treo cổ, hai quân nhân người Nhật này có vẻ sợ nhất mấy từ ‘dẫn độ về nước thẩm vấn’, có phải thế không?”
Sở Vọng ngoái đầu nhìn rồi quay lại hỏi: “Thưa ngài, bây giờ Zoe đang ở đâu?”
Boulon mỉm cười nói: “Vị lãnh sự kia cũng không biết quý cô à. Có điều có thể xác định một chuyện, cậu ta sẽ là người được đưa về đế quốc Anh nhanh hơn bất cứ ai ở thuộc địa Anh. Đứng trên lập trường an nguy của cậu ta, ta cho rằng cần phải nhanh chóng chứng minh mối quan hệ hai người với người Anh.”
Người trung úy kia đi về phía Boulon, nói, “Thưa sếp, có vài tay phóng viên không chịu đi, nói muốn phỏng vấn cô gái này.”
“Chà, quý cô có thể đang bị tai tiếng nhấn chìm của chúng ta, sợ là lần này cô sẽ gặp rắc rối vì tin tức quan hệ bất chính liên quan đến ba nước đấy,” Boulon nghe thế thì cười nói, trước khi đi còn nói một câu, “Xin lỗi quý cô, đó không phải là ý định ban đầu của ta. So với việc đó, ta thích việc sớm được thấy tin cưới của cô và Zoe ở trên báo hơn.”
Sau khi Boulon và trung úy rời đi, người của thương hội nhanh chóng đưa cô rời đi từ cửa bên, trốn khỏi sự truy kích của đám phóng viên cố chấp kia.
Xe của bà Cát và bên thương hội Thượng Hải đã chờ sẵn trong con ngõ ở bên ngoài cửa sau.
Lúc cô đi ra từ cửa sau, thấy bà Cát đứng chờ dưới cây bồ kết, còn mấy người Tưởng, Hoàng và Tạ lão gia thì nói chuyện hàn huyên cạnh xe hơi ở dưới ngô đồng xa xa.
Bà Cát còn chưa lên tiếng, cô đã thấp giọng gọi: “Cô út…”
Nửa câu sau chưa thốt ra khỏi miệng, nhưng cô đã có thể cảm thấy cả biểu cảm lẫn âm thanh của mình đều thể hiện rõ sự háo hức, thế là lập tức khép miệng.
Bà Cát nhìn thẳng vào cô, hỏi đùa, “Sao hả?”
Cô thở dài, nhắm mắt nói: “Cháu muốn cứu anh Tạ.”
Bà Cát vẫn nhìn cô, nói, “Vừa rồi cha nó với bốn năm lão già đằng kia còn không biết xấu hổ, hùng hồ đi tới như muốn đòi bắt giữ cô, còn bảo cô bàn bạc chuyện này với cháu. Bây giờ thì hay rồi, trông cháu thế này, e là còn sốt sắng hơn bất cứ ai.”
Hai cô cháu lại nhìn đến dưới cây ngô đồng. Ngoài ngài Tưởng mỉm cười với họ ra, Tạ lão gia cùng ba người kia chột dạ xoay mặt đi nơi khác.
Cô nói: “Không chừng sau này khi cháu lên báo, sẽ không ai dám cưới cháu nữa.”
Bà Cát cười, “Không phải lần trước vì chuyện cháu với ông thầy kia mà Lâm Du cũng ồn ào đấy thôi, sao không thấy cháu sợ không ai cưới?”
Cô đáp: “Không phải cô Cát cử anh Tạ đến cho cháu đấy sao.”
Bà Cát lại cười, “Giờ cậu ta đang ở trong tù, từ sau khi cô đến Thượng Hải, số thanh niên tuấn tú xin đến biệt thự nhà ta vì để gặp cháu còn ít sao?”
Cô vạch trần bà Cát, cười khì khì nói, “Chính cô cũng mình nhìn anh Tạ trưởng thành, những người đàn ông tuấn tú kia có ai tốt hơn anh Tạ ư?”
“Tốt? Nó tốt chỗ nào hả? Nếu là trước đây thì còn có thể trông cậy nó kiếm được tiền đồ trong lục quân Anh. Giờ thì sao hả, không những không tự bảo toàn cho mình, mà còn phải nhờ con gái người ta lấy thân báo đáp đi cứu nó.” Bà Cát tức giận bắn liên thanh trút giận, sau đó lại thấp giọng hỏi cô, “Con bé này, cô thương nó nhưng còn thương cháu hơn. Tuy nói thế này không lọt tai, nhưng cô vẫn khuyên cháu nghĩ kỹ. Trước đây thấy nó là đứa chẳng ra gì, giờ loáng cái mới ba bốn tháng lại không biết nó đang bị giam ở đâu chịu tội gì, nếu sau này quay về, phát hiện nó cụt tay cụt chân, sụt cân thiếu lạng, đến lúc đó có hối hận cũng không kịp.”
“Vậy…” Con tim cô thít lại, nhưng không dám qua loa với bà Cát. Sau cơn nhói lòng, cô thở hắt hai hơi, đáp, “Thế cũng không gấp ạ.”
Bà Cát thở dài, chỉ hận không thể rèn sắt thành thép. Rồi bà quay đầu đi, bực tức hô lên với người của thương hội; “Gọi Tạ Hồng đến đây cho tôi!”
Cô không kìm được cười phì, vội nói, “Cô à, vẫn nên để cháu đến chào ngài Tạ thì hơn.”
Bà Cát ngăn cô lại, nói, “Đi cái gì mà đi?”
Tạ Hồng có vẻ khá sợ bà Cát, đầu tiên là nhờ ngài Hoàng đến thăm dò tình hình.
Ngài Hoàng nói với bà Cát và Sở Vọng: “Ngài Tạ nói, qua mấy hôm nữa ông ấy sẽ cho thuyền đưa sính lễ tới Hương Cảng, đưa đến chỗ của hai người.”
Sở Vọng: “…”
Bà Cát nói, “Thuyền gì?”
Ngài Hoàng đáp, “Đương nhiên là sà lan bọc thép to nhất, kéo còi từ bến tàu cho đến khi lên bờ, từ bến tàu dùng xe chở hàng khua chiêng gõ trống đưa lên đồi! Nếu không tôi cũng không đồng ý đâu.”
Sở Vọng: “…”
Bà Cát hừ lạnh, “Phải làm lớn vào, để người ở tô giới công cộng đọc báo biết được mình phải chuẩn bị bao nhiêu thì mới không mất mặt.”
Sở Vọng còn đang kinh ngạc thì ngài Hoàng đã nói hộ cô: “Hai người không sợ Lâm Du tìm đến cửa nói chuyện à, nói sính lễ không đưa đến nhà họ Lâm ông ta, không hợp phép tắc?”
“Tôi còn đang nghĩ xem ông ta có mặt dày đến thế không đây. Nếu cái người không thân phận trong nhà ông ta dám làm ầm lên thì vừa hay hợp ý tôi, tôi chờ bà ta tới.”
Ngài Hoàng quay sang nói với cô, “Làm phiền cô ba Lâm rồi.”
Sở Vọng đáp, “Xin cám ơn chiếc vòng của ngài Hoàng lần trước.”
“Cũng không phải vật gì lớn lao, đâu ngờ nhà máy sẽ bị cháy, hắn ta cảm thấy lưới rách cá chết mà nổi sát ý.” Ngài Hoàng nói tiếp, “Đợi đến đám cưới của cô và cậu Tạ, Hoàng tôi sẽ tặng hai người sính lễ cực kỳ phong phú. Đến lúc đó, nếu cô ba thích thì nói cám ơn vẫn chưa muộn.”
Nói đoạn, ngài Hoàng xoay người đưa lưng về phía bà Cát, ra sức nháy mắt với Tạ huân tước, có lẽ là lén nói với ông ấy “cô Cát đã bớt giận rồi, ông đừng sợ”. Còn ngài Tạ lại giả vờ đang nói chuyện với ngài Tưởng và ngài Đỗ, song tầm mắt cứ lấm lét nhìn sang đây; thấy tình hình đã ổn, ông mới chắp tay lại gần.
Ông có đầu tóc dài hoa râm, thắt bên trong áo sơ mi nhung lam là khăn loại chỉ nhị, tay cầm hai món đồ chơi hạch đào*. Ngẩng đầu lên nhìn bà Cát, cười xòa mấy tiếng rồi lại ho khan, sau đó khom người kéo tay Sở Vọng, lịch thiệp hôn lên ngón cái của cô, mọi cử động giống hệt vai bố già của Marlon Brando trong bộ phim cùng tên.
(*Đồ chơi làm từ hạch đào được điêu khắc trông giống đầu sư tử, ảnh.)
Nhưng đến khi ông mở miệng, sự phong độ khí thế ấy lập tức biến mất.
Ông thành khẩn nói: “Cô ba, con chai nhà ngộ ngon lành lứm nha.”
Sở Vọng kìm nén lắm mới không bật cười.
***
Tối ngày xét xử, bà Cát, Tạ huân tước, ngài Hoàng chứng hôn cùng với ông mai Tưởng, thêm cả Di Nhã cùng ngồi xe đến tòa thị chính lâm thời ở Thượng Hải. Lúc này đã vào giờ tan tầm, nhưng nhân viên làm việc bị một cuộc gọi gọi về phát giấy kết hôn ngay.
Thực ra cả quá trình không hề có chuyện của Sở Vọng. Bà Cát và ngài Tạ mỗi người nhận một tờ, tự điền tên họ, năm sinh của Sở Vọng và Tạ Trạch Ích vào, sau đó điền tên họ của người nhà hai bên, người chứng hôn và người làm mai, rồi lần lượt ký tên, đóng dấu, tỏ vẻ trịnh trọng.
Trong suốt quá trình, nhân viên công văn chỉ hỏi một câu: “Vì sao thời gian lại là 29 tháng 4?”
Ngài Tạ giao một bản đăng ký chính thức ở đảo Penang viết bằng tiếng Anh cho nhân viên, bà Cát sợ ông nói chuyện nhân viên nghe không hiểu, bèn bảo: “Hai đứa nó đã chính thức nhận giấy đăng ký kết hôn ở đảo Penang vào bốn tháng trước rồi, nhưng sợ về nước không đồng ý nên mới đi làm lại, nên mới viết là tháng 4.”
Nhân viên giấy tờ vỡ lẽ, đóng dấu cộp cộp: “Cũng hay có chuyện như thế thật, đỡ cho con chào đời sớm bị người thân họ hàng nói ra nói vào.”
Bà Cát im lặng, chẳng buồn giải thích với anh ta.
Sở Vọng nhìn trời: “…”
Đóng dấu xong, người nhân viên trao đổi hai bản mà bà Cát và ngài Tạ đã điền. Bản được giao cho bà Cát, bà Cát đưa lại cho Sở Vọng; còn bản của ngài Tạ thì lập tức bị Di Nhã cướp lấy nhìn ngó.
Cô nàng cúi đầu nhìn, hai bên giấy chứng nhận vẽ rồng phượng xanh xanh đỏ đỏ, năm chữ “giấy đăng ký kết hôn” viết bằng chữ phồn thể ở trên cùng được in dập, bên dưới là tiểu thiên sứ cùng với hồ nước ở vườn địa đàng, màu sắc thiết kế cực kỳ lòe loẹt, hình ảnh không Trung cũng không Tây, vô cùng buồn cười. Ở giữa viết bằng chữ Khải:
Lâm Sở Vọngngười huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, năm nay 16 tuổi, sinh vào giờ Hợi ngày 3 tháng Giêng năm dân quốc thứ 3.
Tạ Trạch Ích nguyên quán trấn Phật Sơn tỉnh Quảng Đông, năm nay 23 tuổi, sinh vào giờ Mão ngày 13 tháng Mười năm Quang Tự thứ 32.
Hai bên thông gia cùng ký kếthôn ước, kết thành lương duyên, xứngđôivừalứa. Nay cành đào khoe sắc thắm, mong gia thất ấm nồng yên vui, con cháu đầy đàn, đời đời sum vầy. Viết ước định cùng đầu bạc răng long lên giấy, tựa mối lương duyên trời ban đề thơ trên lá đỏ, ghi lên mẫu uyên ương. Lấy đây làm chứng.
Di Nhã cùng cô đọc hết hàng chữ bên trên, cười vui vẻ nói: “Lần này gặp Linzy phải đổi giọng gọi chị dâu rồi.”
Ngài Tạ nói: “Có thể gọi là cô Tạ.”
Ngài Tưởng nói: “Cũng không đúng. Tuy cậu Tạ không còn hàm nhưng vẫn còn còn tước. Gọi cô cũng không được, phải là phu nhân mới đúng. Giờ coi như cùng cấp bậc với các phu nhân Hương Cảng rồi.”
Bà Cát xỉ vả bọn họ, “Biến biến biến, Tạ Trạch Ích còn không chưa thấy đâu mà đã muốn chiếm hời con gái người ta rồi, còn sớm lắm!”
…
Cô cầm giấy đăng ký kết hôn trong tay, không kìm được nhoẻn miệng cười, đồng thời lại có phần mơ màng: Ấy, vì sao mình cứ thế gả đi rồi?
***
Sáng ngày hôm sau, trên mọi tờ báo lớn nhỏ đều là phiên tòa liên quan đến sáu nước. Nhưng còn hấp dẫn hơn kết quả phiên tòa là những mẩu tin liên quan đến cô.
Vào thời đại này, có rất nhiều cách để đàn ông thành danh, mà danh tiếng của phụ nữ lại có vẻ luôn gắn liền với đàn ông. Một cô gái độc lập có tiếng tăm mà không phụ thuộc vào đàn ông, ngoại trừ phạm vào lỗi lớn thì gần như là chuyện không tưởng.
Đồng thời trên báo cũng đưa tin về tình yêu tam giác giữa ba nước trong viện nghiên cứu, còn có cả tài năng của cô về khoa học và ngôn ngữ, những bài luận văn cô đã viết, dung mạo của cô, thậm chí cả vụ bê bối từng bị cha cô và bà Kiều tạo ra ngày trước; có điều lần này, những lời bình luận về cô không quá gay gắt, đánh giá cũng khá tiêu cực chính diện. Chẳng hạn như:
“Có ai không thích phụ nữ vừa đẹp vừa thông minh. Nhưng khi có vẻ đẹp và trí tuệ khác với người thường thì rất dễ khiến phụ nữ ghen tỵ, còn đàn ông lại mơ ước có được, chưa chắc đây đã là chuyện khiến người ta dễ chịu… Nhiều người thích mỹ nhân, giả sử có phạm phải sai lầm nhỏ thì cũng không ảnh hưởng lớn đến đại thể.”
…
Sau bài báo đăng tải tin tức kết hôn của cô, mức độ trà dư tửu hậu của người dân thành phố Thượng Hải được đẩy lên một tầm cao mới. Khi bà Cát cho tài xế đưa cô đến lãnh sự quán Anh lấy giấy đăng ký kết hôn, cô còn bị nhân viên lãnh sự quán cười nói: “Chúng tôi đã nghe nói về hôn sự này từ lâu rồi, cuối cùng cũng thấy được người thật.”
Nhân viên nhanh chóng ký vào giấy đăng ký đã chuẩn bị sẵn, rồi nhanh chóng nhờ người đánh một bức điện báo.
Sau đó nói với cô: “Được rồi.”
Cô ngơ ngác hỏi: “Nhưng xin hỏi, bao giờ thì tôi có thể gặp được anh Tạ… nhà tôi?”
***
Sau ngày từ lãnh sự quán về, sáng sớm nào cô cũng bảo tài xế đưa cô đến đường Ferguson.
Ba tháng không đến, thời hạn Tạ Trạch Ích trả lương cho dì giúp việc cũng đã hết. Bụi bám một lớp dày, người như cô lại không thường xuyên làm việc nhà, Sở Vọng cầm cây lau nhà chùi chùi kéo kéo cả ngày mới miễn cưỡng khiến căn phòng trở nên khá sạch sẽ.
Anh Trịnh và chị Trịnh đã dọn đi, vào ở là một gia đình Thượng Hải bình thường, một căn phòng nhỏ mà chen chúc đến tám miệng ăn thuộc ba thế hệ. Còn đứa trẻ kia, trong ngày phiên tòa kết thúc, bà Cát đã đi tới hỏi thăm mẹ nó là có phải thật sự muốn vì giữ miếng ăn mà không nhận con ruột không. Nhưng khi nhận được câu trả lời phủ định, bà Cát vô cùng hào sảng mời một người tới dạy cô ấy học đánh máy, xếp cho cô ấy một công việc nhân viên đánh máy để hai mẹ con có thể duy trì kế sinh nhai tại Thượng Hải.
Ngày nào cô cũng đến đường Ferguson dọn dẹp một lần. Lau chùi cửa kính, thay mới rèm cửa, đem về bảo người hầu ở biệt thự nhà bà Cát giặt sạch. Lúc đi ngang qua tiệm bán hoa ở trên đường, cô sẽ mua một bó phù dung hoặc hải đường đặt vào bình sứ, cứ mấy hôm lại thay một lần.
Chiều chiều trước khi về nhà ăn tối, cô lại ra bến tàu đi dạo một vòng. Biết không có thuyền vào cảng, cô mới bảo tài xế chở mình về biệt thự.
Có lần bà Cát nói với cô: ngày trước bảo cháu ở đường Ferguson là vì cô không ở đây. Giờ cô đã ở Thượng Hải, cha nó cũng ở đây, hai nơi cũng không xa, hai đứa về nhà ở có người chăm lo ăn mặc, không phải dễ hơn sao? Giả sử nếu cháu thật nhớ quãng thời gian ngày xưa thì để cô dẫn hai người đến dọn dẹp sạch sẽ là được.
Cô nghĩ ngợi, vẫn cảm thấy không nên.
Trong ngày mở đầu tiết Bạch Lộ, Thượng Hải mưa liên miên, đồng nghĩa với việc mùa hè sắp kết thúc. Ngày nào Chân Chân cũng đến tìm cô chơi, cô viết báo cáo, Chân Chân đứng trong bếp nấu mấy món đồ kỳ quái. Ngày đầu tiên tới, cô ấy nói: “Đang đọc báo tự dưng thấy tin kết hôn của hai người, giật cả mình! Chị còn tưởng em và anh Tạ ăn cơm trước kẻng, không giải quyết được nên mới phải đành cưới nhau, hại chị ở nhà chửi mắng anh ta um sùm.” Sau đó lại còn, “Em không mang thai là được rồi. Cha chị cũng nói với chị, nếu em có bầu thì khoan đi Anh đã, ở nhà chăm em, năm sau rồi đi.”
Đã lâu rồi chưa nghe tin tức gì về Ngôn Tang, cứ tưởng anh đã âm thầm đi Mỹ. Về sau nghe Chân Chân bảo anh vẫn chưa đi, thỉnh thoảng tạnh mưa là anh ra bờ biển Âu Lộ tụ tập tiệc tùng. Đến ngày thứ chín, Chân Chân và cô ra bến tàu ăn ly kem cuối cùng trong mùa hè, là tiệm kem của người Indonesia, ăn ngon hơn kem toàn đá ở tiệm bên bến tàu Thiên Tinh. Ăn kem xong đi bộ vệ, hai người đi ngang qua tiệm bán hoa “may mắn” của người Đức, cô nhớ đến hoa trong bình sứ trên bệ cửa sổ gần héo, rồi lại đột nhiên nhìn thấy hai búp sen trắng, thế là vội mua về cắm.
Chân Chân thở dài, “Em thích anh ta thật rồi.”
Cô “à” một tiếng, tự bản thân cũng cảm thấy hoài nghi: “Thế à?”
Chân Chân gật đầu, chọc vào trán cô: “Vạn tuế khai hoa, ngàn năm một dịp. Còn chưa đủ thích sao?”
Cô nhìn hai bông sen trắng, mỉm cười đáp, “Hình như là vậy.”
Một tuần trước khi Chân Chân rời đi, vì cô ấy có quá nhiều hành lý cần thu dọn nên không thể đến chơi với cô được. Tài xế chở cô ra bên tàu, vừa xuống xe, từ đằng xa đã thấy một con tàu chiến hạm cập cảng. Cô che dù chạy nhanh đến bến tàu, lúc ấy trời đang mưa, bùn lầy bắn lên vạt váy và đôi vớ trắng tinh.
Cô đứng đợi trên bến tàu gần hai mươi phút, cho tới khi hải quân hoàng gia, sĩ quan bộ binh và binh lính trên tàu lục tục tời đi, nhưng cô vẫn không thấy Tạ Trạch Ích đâu.
Đã hai tuần rồi mà trong mỗi chiếc tàu cập cảng đều không có người cô muốn gặp. Cô âm thầm dùng thời gian khoảng cách để đoán ra vị trí của anh. Hai ngày đến ba ngày, có lẽ là ở Đông Nam Á; ba ngày đến năm ngày, chắc là xung quanh Ấn Độ Dương; năm ngày tới mười ngày, từ Ấn Độ Dương đến châu Phi; mười ngày đến mười lăm ngày, có thể là châu Phi và biển Đỏ.
Nếu thêm một ngày nữa thì có lẽ thuyền đã về Anh thật rồi, khéo có khi Tạ Trạch Ích thực sự đã cụt tay cụt chân.
Thiếu thì thiếu, cùng lắm sau này đẩy xe lăn cho anh, cô đi thế nào thì anh cũng chỉ có thể đi thế ấy, miễn anh chân dài đi bộ quá nhanh, hại cô thấy áp lực.
Mưa đã ngớt hạt, cô ngoái đầu nhìn tiệm hoa “Glück” bên kia. Gần tiệm hoa đối diện cảng là một con hẻm nhỏ lát đá, tuy không quá hẹp nhưng lại khó đi. Đầu hẻm trồng nguyệt quế, giờ đang là thời điểm nở rộ, sau cơn mưa gió thổi tới, mang theo một mùi hương nồng.
Bước vào tiệm án hoa, hoa trong thùng gỗ ngập nước không còn lại nhiều. Cô nhìn ngó một lúc, dùng tiếng Đức hỏi chủ tiệm, “Chào buổi chiều, xin hỏi giờ tiệm mình còn hoa gì không ạ?”
“Còn ít hồng nguyệt quý, hồng leo thì không nhiều… Hôm nay có quân hạm cập cảng nên có nhiều người gặp bạn cũ. Mấy phút trước còn có ít bách hợp nhưng có một anh mua rồi. Nói đã lâu không gặp vợ mình nên muốn mua tặng cô ấy.”
Cô gật đầu, nghĩ đến bông hoa héo hai tuần mà thấy thương. Cô cũng cho nước vào trong bình giống Tạ Trạch Ích, nhưng hoa anh chăm lại thường nở lâu hơn.
Nghĩ đến đây, cô thầm thấy vui vì hôm nay Tạ Trạch Ích chưa về, nếu không, anh mà về nhà thấy bông hoa héo kia thì kiểu gì cũng sẽ cười nhạo mình mất.
Quay đầu rời đi, đang định chuẩn bị ngày mai lại tới thì bất chợt, cô trông thấy một bóng người màu xám cao lớn bên ngoài con hẻm, người đó một tay che dù, một tay cầm đóa bách hợp.
Đèn trong tiệm khá sáng, anh lại đứng ở chỗ tối trong hẻm nên nhìn không được rõ lắm. Đột nhiên chủ tiệm ở sau lưng cô cười lên: “Ôi anh đấy à, sao không về đi, vợ anh đang sốt ruột chờ anh đấy.”
Ngay sau đó, một âm thanh quá đỗi quen thuộc trả lời bằng tiếng Đức: “Không vội. Tôi vừa phát hiện vợ mình cũng đang ở đây.”
Nghe thấy từ “meine frau”, con tim cô đập mạnh.
Một giây sau, cô bỗng xách váy lên, sải bước lao nhanh về phía anh.
Tạ Trạch Ích che dù đứng trong mưa nhìn cô.
Thấy cô giẫm vũng nước chạy về phía mình, anh lập tức vứt dù đi, giơ cao bó bách hợp dính mưa cách xa cô, dùng tay trái đã vứt dù ôm chầm lấy cô.
Sở Vọng ôm siết anh, mặt dán vào ngực anh, không nói một lời.
Tạ Trạch Ích lùa tay vào tóc cô, khẽ ngẩng đầu lên, thở dài, ấn cô vào lòng, giọng khàn khàn gọi cô: “Cô Tạ.”
Cô cọ đầu vào người anh, giọng nhỏ như muỗi khẽ gọi, “Anh Tạ.”
___
Fanart hòn vọng phu Sở Vọng.