1. Nguyên thủy nông nghiệp tập tục khởi nguyên cùng truyền bá
Trung Quốc cổ sử truyền thuyết nông nghiệp là Thần Nông thị phát minh.
Hoài Nam Tử · Tu vụ huấn: "Liền Thần Nông chính là bắt đầu giáo dân gieo ngũ cốc." Trang Tử, Chu dịch · Hệ từ, Bạch Hổ Thông, Thương quân thư các cũng có tương tự tựa như ghi lại, kết hợp khảo cổ tư liệu phân tích, này hẳn là đối Trung Quốc thời đại đá mới lúc đầu nông nghiệp sản sinh giai đoạn có chứa thần hóa sắc thái khắc họa.
Từ thế giới lịch sử tình huống xem, nông nghiệp phát sinh đại thể là cùng thời đại đá mới liên kết hệ. Liền trung quốc lịch sử tình huống mà nói, nông nghiệp xuất hiện cũng là cùng thời đại đá mới chặt chẽ liên kết, nông sử học đem Trung Quốc thời đại đá mới nông nghiệp xưng là nguyên thủy nông nghiệp, khảo cổ học thì cho rằng nông nghiệp là thời đại đá mới cơ bản đặc thù một trong.
Mới nhất khảo cổ học khai quật cùng thành quả nghiên cứu cho thấy, châu Mỹ Mexico cùng Peru, Bắc Phi Ai Cập, Tây Á Thổ Nhĩ Kỳ cùng Iran, Đông Á Trung Quốc các đều là cổ đại nông nghiệp nơi khởi nguồn cùng khu trung tâm. Nước ngoài nông nghiệp khởi nguyên thời gian cho tới nay sớm nhất có thể tố đến cách ngày nay 1 vạn năm trên dưới, mà Trung Quốc nông nghiệp phát sinh, cho tới nay tại Hoàng Hà lưu vực Trung Nguyên khu vực chí ít có thể ngược dòng chí công nguyên trước 6000 năm (cách ngày nay 8000 năm) tả hữu Từ Sơn, Bùi Lý Cương văn hóa thời kỳ. Nhưng từ Từ Sơn, Bùi Lý Cương văn hóa để lại phản ứng sức sản xuất trình độ đã vượt qua nông nghiệp phát sinh mới bắt đầu giai đoạn hiện tượng phân tích, Hoàng Hà lưu vực vẫn còn ứng tồn tại sớm hơn Từ Sơn, Bùi Lý Cương văn hóa thời kỳ nông nghiệp để lại, nông nghiệp khởi nguyên đồng ý đám này còn chờ phát hiện càng sớm hơn thời kỳ di chỉ bên trong đi tìm tìm kiếm. Tại Hoa Nam khu vực, kinh khai quật khảo cổ điều tra Quảng Tây Liễu Châu Bạch Liên động hai kỳ văn hóa, Lai Tân Long Động nham, Vũ Minh Bao Kiều, Ba Huân, Đằng Tường, Quế Lâm cửa bắc phụ cận hang động di chỉ, Quảng Đông Dương Xuân Độc Thạch Tử, phong mở Hoàng Nham động, Quý Châu Bình Bá Phi Hổ Sơn động, Đài Loan Ngọc Sơn vân vân di chỉ, gần nhất bị học giả dùng khảo cổ học theo giai đoạn pháp thuộc về là Hoa Nam khu vực thời đại đá mới lúc đầu trước đoạn "Không đào mới đồ đá văn hóa thời kỳ", đám này di chỉ thán 14 trắc định niên đại khấu trừ thiên lão bộ phận, tuyệt đối niên đại ước tại cách ngày nay 9500 năm đến 11000 năm, nhà nghiên cứu căn cứ chư di chỉ phát hiện cốt xẻng, cối đá bàn cùng ma bổng, cá biệt di chỉ bào phấn phân tích, kết hợp thán trắc niên đại tình huống cho rằng, nên thời kỳ làm đã phát sinh trồng trọt giống khoai môn, thự dự, họ đậu các thực vật nguyên thủy nông nghiệp (Trương Chi Hằng: Hoa Nam địa khu tân thạch khí thời đại văn hóa đích phân kỳ hòa đặc trưng). Quảng Tây Quế Lâm Tắng Bì Nham di chỉ, thán 14 trắc định niên đại là cách ngày nay 7580 năm đến 113 10 năm, học giả kết hợp để lại khai quật đồ gốm cùng cùng tồn tại vật phân tích, cũng đưa ra nên di chỉ thời kỳ đã phát sinh nguyên thủy nông nghiệp vấn đề (Lương Gia Miễn chủ biên: Trung Quốc nông nghiệp khoa học kỹ thuật sử cảo). Như thế xem ra, bất kể là tại Trung Nguyên khu vực hay là tại Hoa Nam khu vực, Trung Quốc nguyên thủy nông nghiệp khởi nguyên thời gian cùng châu Mỹ, châu Phi, Tây Á các địa khu là cơ bản đồng thời hoặc là hơi sớm, Trung Quốc nông nghiệp phát sinh thời đại cũng nên tại thời đại đá mới lúc đầu.
Từ Từ Sơn, Bùi Lý Cương văn hóa di chỉ cùng Hoa Nam khu vực chư thời đại đá mới lúc đầu di chỉ đều là tọa lạc tại chân núi khu vực cùng bên trong hang núi tình huống phân tích, Trung Quốc thời đại đá mới lúc đầu xuất hiện nguyên thủy nông nghiệp bao hàm một loại vùng núi nông nghiệp (Lý Căn Bàn, Lư Huân: Ngã quốc nông nghiệp khởi nguyên vu sơn địa khảo 》) hoặc ruộng cạn nông canh nghiệp, loại này vùng núi hoặc ruộng cạn nông canh nghiệp, trên thực tế cũng là Trung Quốc sớm nhất nông nghiệp. Hoa Nam khu vực vùng núi nông nghiệp để lại, hiện nay khảo cổ phát hiện vẫn còn chủ yếu hạn chế tại kể trên di chỉ. Mà tại Hoàng Hà lưu vực Trung Nguyên khu vực, loại này vùng núi hoặc ruộng cạn nông canh tập tục trừ thấy chư Từ Sơn, Bùi Lý Cương di chỉ bên ngoài, thuộc văn hóa trong vòng Hà Bắc Vũ An nam cương, Hà Nam huyện Mật Nga Câu cùng với Tân Trịnh, Đăng Phong, Yên Lăng, Trường Cát cùng huyện Giáp các nơi có quan hệ di chỉ, đều hiện ra thấy loại này sinh sản tập tục lưu hành. Cùng Từ Sơn, Bùi Lý Cương văn hóa cơ bản thuộc đồng nhất giai đoạn mà tuyệt đối niên đại thoáng thiên muộn nông nghiệp để lại, tại Cam Túc Tần An đại địa loan, Thiểm Tây Bảo Kê bắc thủ lĩnh, Lâm Đồng Bạch gia, huyện Hoa Lão Quan Đài, Nguyên Quân miếu, Tây Hương Lý gia thôn, Hà Nam Lạc Ninh Lạc Hà ven bờ các nơi cộng lại chừng phát hiện hơn 20 nơi, phân bố phạm vi chủ yếu tập trung tại Quan Trung khu vực, tây cùng Cam Túc Lũng Đông khu vực, đông đến Thiểm Dự giáp giới khu vực, nam vượt qua Tần Lĩnh đến Hán Trung khu vực. Từ thời gian cùng phân bố địa vực trên xem, đám này di chỉ là vùng núi hoặc ruộng cạn canh tác sinh sản tập tục sớm nhất thừa kế giả.
Tại công nguyên trước 4800 năm chí công nguyên trước 3600 năm thời đại đá mới bên trong, thời kỳ cuối, Hoàng Hà lưu vực xuất hiện lấy Trung Nguyên văn hoá Ngưỡng Thiều làm đại biểu quy mô lớn lao nông nghiệp văn hóa, ngưỡng thiều nông nghiệp văn hóa phân bố, lấy Quan Trung, Dự Tây, Tấn Nam một vùng làm trung tâm, đông đến Dự Đông cùng Hà Bắc, tây chống đỡ Vị Hà thượng du cùng Thao Hà lưu vực, bắc đến Hà Sáo khu vực, nam cùng Hán Giang trung hạ du, phân bố phạm vi cực kỳ vượt qua tiền kỳ. Văn hoá Ngưỡng Thiều nông nghiệp sinh sản, có thể nói, là trực tiếp kế thừa tiền kỳ truyền thống, phổ biến lưu hành lấy ruộng cạn canh tác làm chủ nông nghiệp sinh sản tập tục. Ngoài ra, không thuộc về văn hoá Ngưỡng Thiều hệ thống Sơn Đông huyện Đằng Bắc Tân văn hóa, Thái An Đại Vấn Khẩu lúc đầu văn hóa, Hắc Long Giang Mật Sơn Tân Khai Lưu văn hóa, Liêu Ninh Thẩm Dương Tân Nhạc hạ tầng văn hóa các loại, cũng tại thời kỳ này bên trong lần lượt lưu hành ruộng cạn canh tác nông nghiệp sinh sản tập tục.
Tại công nguyên trước 3500 năm chí công nguyên trước năm 2000 trước đây thời đại đá mới thời kỳ cuối, Hoàng Hà lưu vực trung hạ du khu vực kế văn hoá Ngưỡng Thiều sau quật khởi nông nghiệp văn hóa là văn hoá Long Sơn, văn hoá Long Sơn phân bố tây lên Thiểm Tây, Đông Lâm ven biển, bắc đạt Liêu Đông bán đảo, nam chống đỡ Giang Tô bắc bộ, phạm vi bao quát lấy trong Hoàng Hà hạ du làm trung tâm quảng đại khu vực. Trung Nguyên văn hoá Long Sơn bao hàm chư di chỉ cùng Sơn Đông Đại Vấn Khẩu bên trong thời kỳ cuối văn hóa cùng với Sơn Đông văn hoá Long Sơn vân vân di chỉ, rõ ràng cũng đều là ruộng cạn nông canh sinh sản tập tục thừa kế, lưu hành cùng truyền bá giả. Ngoài ra, hưng khởi tại thời kỳ này Hoàng Hà thượng du Cam, Thanh, Ninh khu vực Cam Túc văn hoá Ngưỡng Thiều (Mã gia hầm lò văn hóa), tề gia văn hóa, Tây Tạng Xương Đô Tạp Nhược di chỉ, phương bắc khu vực (Liêu Ninh, Cát Lâm, Nội Mông Cổ) Hồng Sơn văn hóa, Nội Mông Cổ Phú Hà văn hóa, Liêu Ninh Trường Hải Tiểu Châu Sơn di chỉ chờ chút, nông nghiệp sinh sản chủ yếu đặc thù cũng đều là lưu hành ruộng cạn canh tác tập tục.
Tại Trung Quốc nguyên thủy nông nghiệp nội hàm bên trong, trừ ra ruộng cạn canh tác nông nghiệp bên ngoài, trên thực tế còn bao hàm một loại tại Trường Giang lưu vực cùng quảng đại phương nam khu vực lưu hành ruộng nước canh tác nông nghiệp.
Trường Giang lưu vực cùng phương nam khu vực lấy ruộng nước canh tác là đặc sắc nguyên thủy nông nghiệp, cho tới nay biết, chí ít có thể ngược dòng đến cách ngày nay 7800 đến 8200 năm trước Bành Đầu Sơn văn hóa thời kỳ. Bành Đầu Sơn văn hóa nhân phát hiện tại Hồ Nam huyện Lễ Đại Bình hương Bành Đầu Sơn mà nổi tiếng, 1988 năm kinh khảo cổ công tác giả chính thức khai quật, văn hóa diện mạo công bố hậu thế, tại Bành Đầu Sơn di chỉ khai quật đào mảnh bên trong xen lẫn lượng lớn lúa xác cùng hạt thóc, kết hợp cái khác cùng tồn tại vật cùng di chỉ thán 14 niên đại trắc định tình huống phân tích, rất nhiều học giả cho rằng, Bành Đầu Sơn di chỉ lúa nước để lại phát hiện, tiêu chí Trung Quốc lúa làm nông nghiệp từ lúc cách ngày nay tám ngàn năm trước sau liền đã phát sinh. Dưới đây cũng biết, Trung Quốc ruộng nước canh tác lịch sử cùng ruộng cạn canh tác lịch sử đồng dạng cổ lão. Cùng Bành Đầu Sơn nông nghiệp văn hóa thời đại tính chất gần gũi Hồ Nam cửa đá Tạo Thị hạ tầng văn hóa cùng Hồ Bắc Nghi Đô Thành Bối Khê văn hóa, cũng đều phát hiện rõ ràng lúa nước để lại, đám này dấu hiệu cho thấy, tại Trường Giang trung du khu vực thời đại đá mới lúc đầu văn hóa bên trong, trồng trọt lúa nước đã không phải cá biệt hiện tượng, ruộng nước canh tác sinh sản xem ra đã hình thành tập tục bắt đầu lưu hành lên.
Tại công nguyên trước 5000 năm chí công nguyên trước năm 2000 thời kỳ, Trường Giang lưu vực cùng Hoa Nam khu vực ruộng nước canh tác nông nghiệp phát triển hết sức nhanh chóng, hiện ra đặc biệt phát đạt phồn vinh xu thế. Tại Trường Giang lưu vực, kế Bành Đầu Sơn, Tạo Thị, Thành Bối Khê nông nghiệp văn hóa sau, đầu tiên quật khởi chính là hạ du khu vực Chiết Giang Dư Diêu Hà Mỗ Độ cùng Đồng Hương La Gia Giác văn hóa, trung du khu vực Tứ Xuyên Đại Khê văn hóa đuổi sau đó, Hà Mỗ Độ văn hóa tại Dư Diêu Mao Hồ, huyện Ngân Thần Giao, Ninh Ba Bát Tự Kiều cùng Chu Sơn Bạch Tuyền các Ninh Thiệu bình nguyên phía đông khu vực đều có phần bố, văn hóa Đại Khê thì chủ yếu phân bố tại Tứ Xuyên Vu Sơn huyện thành, Hồ Bắc Tỷ Quy hướng lên trời trớ, Nghi Xương Dương gia loan, thanh thủy bãi, bên trong bảo đảo, Nghi Đô hồng hoa bộ, cổ lão bối, Chi Giang Quan Miếu Sơn, Giang Lăng Mao Gia Sơn, Thái gia đài, Tùng Tư Quế Hoa Thụ, Công An Vương gia cương, Hồ Nam huyện Lễ Tam Nguyên cung, Đinh gia cương, An Hương Thang Gia Cương các Xuyên Ngạc tương tiếp giáp khu vực. Đám này di chỉ đều là rõ ràng lưu hành lấy ruộng nước canh tác làm chủ yếu sinh sản tập tục, tạm thời lúa nước trồng trọt nghiệp đều đã đạt vô cùng phát đạt trình độ. Kế Hà Mỗ Độ, văn hóa Đại Khê sau, Gia Hưng Mã Gia Binh văn hóa, Kinh Sơn Khuất gia lĩnh văn hóa, Dư Hàng Lương Chử văn hóa, huyện Vân Thanh Long tuyền ba kỳ văn hóa cùng Giang Tây văn hóa Sơn Bối, Phúc Kiến Đàm Thạch Sơn văn hóa, Quảng Đông Thạch Hạp, Trần Kiều, Kim Lan Tự văn hóa cùng với Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu các nơi mới đồ đá thời kỳ cuối văn hóa vân vân Trường Giang lưu vực cùng Hoa Nam khu vực phần lớn nông nghiệp văn hóa di chỉ, đều phổ biến lưu hành ruộng nước canh tác, cũng lấy trồng trọt lúa nước làm chủ sinh sản tập tục.
2. Hạ, Thương, Tây Chu thời kỳ nông nghiệp
Ước chừng tại công nguyên trước 21 thế kỷ, Trung Quốc từ xã hội nguyên thuỷ tiến vào xã hội nô lệ, từ khải thành lập Hạ vương triều trở thành Trung Quốc đệ một cái quốc gia vương triều, đến công nguyên trước 17 thế kỷ trước sau, Hạ vương triều thống trị nhân thương vương triều quật khởi mà tìm tới đình chỉ phù. Có quan hệ Hạ vương triều Sử Tích, đại thể thấy ở cổ đại văn hiến. Cùng văn hiến ghi chép tương ứng khảo cổ tư liệu, cho tới nay chủ yếu thấy ở Hà Nam Yển Sư Nhị Lý Đầu loại hình văn hóa, Nhị Lý Đầu loại hình văn hóa chủ yếu phân bố tại Dự Tây, Tấn Nam một vùng, này cùng văn hiến truyền thuyết "Hạ khư" phương vị cơ bản ăn khớp. Hạ vương triều nông nghiệp sinh sản, liền hiện nay tư liệu biểu hiện, chủ yếu là lưu hành ruộng cạn canh tác kỹ thuật cùng tập tục, mà tại Hạ vương triều trung tâm phạm vi ở ngoài những địa khu khác, như Trường Giang lưu vực cùng phương nam khu vực thì vẫn cứ là lưu hành lấy ruộng nước canh tác làm chủ sinh sản tập tục.
Từ công nguyên trước 17 thế kỷ chí công nguyên trước 11 thế kỷ trước sau, từ Thương Thang thành lập thương vương triều thống trị Trung Nguyên phần lớn khu vực, phạm vi thế lực chủ yếu tập trung tại Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc, Hồ Bắc một vùng. Khảo cổ phát hiện thương đại văn hóa tư liệu nhiều đẹp thịnh vượng, điển hình di chỉ chủ yếu có Trịnh Châu Nhị Lý Cương, An Dương Ân Khư, Hà Bắc Cảo Thành Đài Tây, Hồ Bắc Bàn Long thành vân vân. Lượng lớn khảo cổ thực vật cùng giáp cốt văn ghi chép cho thấy, Thương triều là lấy kinh doanh nông nghiệp làm chủ vương triều, cứ việc ngay lúc đó thủ công nghiệp đã rất phát đạt, nhưng nông nghiệp vẫn cứ là xã hội kinh tế mạch máu. Thương triều nông nghiệp sinh sản, chủ yếu là ruộng cạn canh tác, thỉnh thoảng kiêm doanh ruộng nước canh tác, tại Thương triều nam giới, tức Trường Giang lưu vực một vùng lấy cùng cái khác cùng thời kỳ phương nam dân tộc, thì chủ yếu lưu hành ruộng nước canh tác nông nghiệp sinh sản tập tục.
Công nguyên trước 11 thế kỷ chí công nguyên trước 770 năm Chu Bình Vương đông thiên trước, là từ Vũ vương bắt đầu kiến tây Chu vương triều thời kỳ, thế này lực khu trung tâm là Thiểm Tây, Hà Nam, đông đến Sơn Đông giáp biển khu vực, tây chống đỡ Cam Túc, nam đến Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Giang Tây, bắc đạt Bắc Kinh, Nội Mông, Liêu Ninh một vùng. Tây Chu thời kỳ khảo cổ học văn hóa, có thể Thiểm Tây cảnh nội Chu Nguyên, Phong Cảo, Bảo Kê các di chỉ làm đại biểu, lượng lớn văn hiến ghi chép cùng khai quật khảo cổ tư liệu cho thấy, Tây Chu thời kỳ nông nghiệp sinh sản trình độ đã tương đương phát đạt, từ vương thất thống nhất quản lý nông nghiệp sinh sản, trừ lưu hành ruộng cạn canh tác thuật bên ngoài, cũng lưu hành ruộng nước canh tác tập tục, Thi · Tiểu nhã · Bạch hoa: "Bưu trì bắc lưu, ngâm đối phương ruộng lúa", chính là lúa nước sinh sản ví dụ thực tế một trong. Tại cùng thời kỳ phương nam khu vực, sinh sản tập tục chủ yếu lưu hành ruộng nước canh tác.
3. Cây nông nghiệp cùng cái khác bồi dưỡng động thực vật
Tại mới đồ đá lúc đầu giai đoạn, Hoàng Hà lưu vực ruộng cạn canh tác loại cây lương thực chủ yếu là kê vàng (tục xưng gạo kê, Hạ Thương Chu Tam Đại hoặc xưng kê tắc, tức kê Proso), Từ Sơn, Bùi Lý Cương di chỉ đều có khai quật thực vật, trừ kê vàng bên ngoài khả năng còn có kê (tục xưng đại hoàng mễ); Hoa Nam khu vực vùng núi canh tác loại cây lương thực, sớm nhất khả năng là giống khoai môn, giống khoai lang (đều không thấy thực vật khai quật); Trường Giang lưu vực ruộng nước trồng trọt là lúa nước, nhưng lúa giống loại (tiên canh) tình huống vẫn còn không rõ ràng.
Tại thời đại đá mới bên trong thời kỳ cuối, Hoàng Hà lưu vực cùng cái khác lưu hành ruộng cạn canh tác tập tục phương bắc khu vực, trồng trọt cây lương thực chủ yếu là kê vàng, kê, cá biệt khu vực hoặc cũng trồng trọt đậu, đay, lúa, cao lương, mạch vân vân; Trường Giang lưu vực, Hoa Nam khu vực thì chủ yếu trồng trọt lúa nước, cá biệt khu vực (như Đài Loan phượng mũi văn hóa) cũng kiêm loại kê vàng . Còn cái khác thu hoạch trồng trọt, tổng hợp toàn quốc các nơi tình huống, đại thể có vừng, đậu tằm, ý dĩ, bầu (hồ lô), củ ấu, hạt súng, dưa bở, đào, anh đào, củ sen, hạt dẻ, đậu phộng, ô liu, táo, cải dầu, rau cải hoặc cải trắng vân vân. Trong đó ý dĩ, tức hiện tại xưng thuốc bắp ngô hoặc hạt ý dĩ. Thời đại đá mới bên trong thời kỳ cuối phát hiện hồ lô tình huống, đã cho thấy trở thành lúc đó khá nặng muốn cây nông nghiệp một trong, kinh tế giá trị trên căn bản có thể cùng kê vàng kê lúa thục cùng sánh vai.
Hạ vương triều thực vật bồi dưỡng tình huống, khảo cổ tư liệu vô cùng thiếu sót, văn hiến ghi chép thì có một ít manh mối.
Quốc ngữ · Lỗ ngữ: "Tích Liệt Sơn thị chi có thiên hạ vậy, con trai nói Trụ, có thể thực bách cốc bách rau. Hạ chi hưng vậy, Chu Khí kế chi, cố tự cho rằng kê tắc."
Hạ tiểu chính: "Tháng giêng. . . Hữu hữu kiến cửu (rau hẹ). . . Thải vân (cải dầu). . . Mai hạnh ly đào thì hoa. . . . Tháng ba. . . Nhiếp dâu. . . Kỳ mạch thực. . . . Bốn tháng. . . Hữu có thấy hạnh. . . . Năm tháng. . . Loại kê thục môn, nấu mai súc lan, thục mi. . . . Tám tháng, bác dưa, nguyên giáo, bác táo, lật linh. . . . Tháng chín. . . Vinh cúc cây mạch. . . . Mười có hai tháng. . . Nạp trứng tỏi. . . ."
Theo Quốc ngữ · Lỗ ngữ thuyết pháp, tại nhà Hạ trước Liệt Sơn thị con trai Trụ đã có thể trồng trọt bách cốc bách rau, đến Hạ triều người Chu thủy tổ Khí thì kế thừa loại kỹ năng này, cũng được người gọi là Hậu Tắc, này cho thấy Hạ triều trồng trọt nghiệp là tương đối phát đạt. Truyền thế dật tên thị Hạ tiểu chính, là nước ta hiện có sớm nhất một bộ vật hậu học lịch, tại Tây Chu đến thời kỳ Xuân Thu nước Kỷ vẫn sử dụng Hạ tiểu chính, trong lịch sử có người cho rằng nó là Hạ triều lịch thư, nhưng cận đại đa số học giả cho rằng nó không phải Hạ triều lịch thư, nhưng khả năng lại bảo tồn có nhà Hạ lịch pháp cơ bản khuôn mặt. Như thế, Hạ tiểu chính bên trong xuất hiện kê thục môn (kê vàng) mạch, cho là Hạ triều chủ yếu cây lương thực, mà mai hạnh đào dưa táo lật lan dâu cửu vân tỏi các loại, nhưng là lúc đó trồng trọt cây ăn quả hoặc rau. Ngoài ra, cư Sử ký · Hạ bản kỷ "Lệnh ích dư chúng thứ lúa, có thể loại ti ẩm ướt" ghi chép xem, Hạ vương triều cũng làm trồng trọt có lúa nước.
Thương triều cây nông nghiệp chủng loại, cư văn hiến cùng Ân Khư khai quật giáp cốt văn ghi chép, đại thể có kê, kê tắc (kê vàng), mạch (lớn, tiểu mạch), thục (đậu), ma, lúa vân vân.
Thượng thư · Bàn Canh: "Nọa nông tự an, không hôn làm làm phiền, không phục trăm mẫu, càng võng có kê kê tắc."
Thiết nhị tứ bát · nhất: "Quý mão bốc, chạy dài trinh, ta được kê năm, hai tháng."
Tiền tam · Tam ○· Tam: "Canh thân bốc, trinh ta được kê vàng năm, tháng ba."
Hậu thượng tam nhất · thập nhất: "Trinh, phất được lúa năm, hai tháng" .
Dật lục ngũ tam: "Đinh Mùi bốc, đại huynh được mạ."
Nghiệp tam · tứ ngũ · thất: "Canh Thìn trinh, được đến (mạch). . . . Chớ được đến."
Túy bát bát thất: ". . . Hợi bốc, được đến mạ."
Thương đại văn hóa di chỉ khai quật cây lương thực thực vật lại có kê vàng, kê, mạch, ma, lúa các loại, có thể cùng văn hiến cùng giáp cốt văn ghi chép hỗ chứng. Ngoài ra, trừ cây lương thực bên ngoài, thấy ở văn hiến, giáp cốt văn cùng khai quật di vật thực vật, còn có đào, anh đào, đường lê, mai, dâu vân vân. Ma (gai), dâu trồng trọt, chủ yếu là dùng cho dệt.
Tây Chu thời kỳ cây nông nghiệp tình huống, cùng hạ, thương thời kỳ trồng trọt truyền thống gần như, Thi Kinh các trong sách cổ rất nhiều thấy có quan hệ cây nông nghiệp ghi lại.
Lỗ tụng · Bí cung: "Có kê tắc có kê, có lúa có cự."
Đại nhã · Sinh dân: "Nghệ chi nhẫm thục, nhẫm thục bái bái."
Chu tụng · Tư văn: "Thiếp ta đến (tiểu mạch) mưu (lúa mạch), đế mệnh suất dục."
Bân phong · Thất nguyệt: "Sáu tháng thực úc cùng áo. Tháng bảy hanh quỳ cùng thục, tám tháng bác táo, mười tháng hoạch lúa, vì thế xuân tửu, lấy giới mi thọ. Tháng bảy thực dưa, tám tháng đoạn ấm, tháng chín thúc tư, thải đồ tân sư, thực ta nông phu", "Tháng chín trúc sân phơi, mười tháng nạp mạ giá. Kê kê tắc trùng được mùa, mạ ma thục mạch."
Bân phong · Thất nguyệt bên trong úc tức đường lê, ấm tức bầu, hồ lô, tư tức ma. Khảo cổ thực vật nhìn thấy Tây Chu thu hoạch chủ yếu là mạch, ma, cao lương cùng lúa. Tổng hợp văn hiến ghi chép cùng khảo cổ thực vật khai quật tình huống biết, Tây Chu thời kỳ cây nông nghiệp chủ yếu có kê, kê tắc (kê vàng), thục (đậu), lúa (đồ), lúa mạch (mưu), tiểu mạch (đến), ma, đường lê, quỳ, táo, dưa, hồ lô, cải dầu, cây củ cải, rau cải, cải trắng, hạnh, đào, mai vân vân. Ngoài ra, cũng xuất hiện đối dâu, đàn, tùng, bách, ghế tựa, đồng, tử, sơn, sở, cức, tạc, sư các cây giống trồng trọt.